TCCS - Để kinh tế tập thể, mà nòng cốt là hợp tác xã khẳng định được vai trò và có đóng góp ngày càng quan trọng vào sự phát triển kinh tế, xã hội của các địa phương, đất nước, vấn đề phát triển nguồn nhân lực cần được đặc biệt quan tâm và coi đây là điều kiện tiên quyết đối với sự phát triển của hợp tác xã, nhất là ở vùng dân tộc thiểu số và miền núi hiện nay.

Những kết quả đạt được

Với những chủ trương, chính sách đúng đắn của Đảng, Nhà nước, công tác đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực hợp tác xã vùng dân tộc thiểu số và miền núi trong những năm qua đã đạt được những kết quả nổi bật, cụ thể là:

Công tác đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực hợp tác xã vùng dân tộc thiểu số và miền núi được Đảng, Nhà nước, các bộ, ngành quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo và triển khai thực hiện. Trên cơ sở Nghị quyết số 13-NQ/TW, ngày 18-3-2002, của Hội nghị Trung ương 5 khóa IX, “Về tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể”, định kỳ 5 năm, 10 năm, 15 năm, Bộ Chính trị đều chỉ đạo tổng kết tình hình thực hiện Nghị quyết số 13-NQ/TW và ban hành kết luận đẩy mạnh phát triển kinh tế tập thể, hợp tác xã, trong đó có chính sách đào tạo, bồi dưỡng, phát triển nguồn nhân lực của các hợp tác xã. Sau 20 năm thực hiện Nghị quyết số 13-NQ/TW, Hội nghị Trung ương 5 khóa XIII đã ban hành Nghị quyết số 20-NQ/TW, ngày 16-6-2022, “Về tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể trong giai đoạn mới”. Quốc hội tiến hành sửa đổi, bổ sung Luật Hợp tác xã cho phù hợp tình hình mới. Các bộ, ngành, địa phương theo chức năng tham mưu, ban hành các văn bản để tổ chức thực hiện nhằm đạt hiệu quả cao. Theo đó, giai đoạn từ năm 2013 đến năm 2021, có hơn 162.093 lượt cán bộ, thành viên hợp tác xã vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi được hỗ trợ đào tạo, bồi dưỡng (trong đó có hơn 12.816 cán bộ hợp tác xã được hỗ trợ đào tạo trình độ từ sơ cấp đến đại học). Số lượt người được tham gia đào tạo và bồi dưỡng có xu hướng ngày càng tăng dần qua các năm.

Chị Vì Thị Oanh (áo xanh), Phó Chủ nhiệm Hợp tác xã dệt thổ cẩm và dịch vụ du lịch Chiềng Châu, huyện Mai Châu (tỉnh Hòa Bình) hướng dẫn kỹ thuật dệt thổ cẩm cho hội viên_Ảnh: TTXVN

Cơ chế, chính sách đào tạo, bồi dưỡng từng bước được hoàn thiện và đáp ứng yêu cầu phát triển nguồn nhân lực hợp tác xã vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, tập trung vào các chính sách về tài chính trong đào tạo, bồi dưỡng, như: Hỗ trợ tiền vé đi lại; kinh phí mua tài liệu; chi phí tổ chức, quản lý lớp học; thuê hội trường; thù lao giảng viên, kinh phí tham quan, khảo sát thực tế... Cùng với đó, một số địa phương xây dựng kế hoạch triển khai thí điểm chính sách thu hút cán bộ trẻ về công tác tại hợp tác xã, như: Miễn học phí cho sinh viên đại học theo các ngành kinh tế, kỹ thuật với điều kiện ra trường về làm việc cho các hợp tác xã tối thiểu 5 năm; hỗ trợ học phí cho cán bộ, thành viên, con em thành viên của hợp tác xã được cử đi học đại học, cao đẳng có cam kết về phục vụ cho hợp tác xã tối thiểu 5 năm. Một số nơi có chính sách hỗ trợ lương cho cán bộ trẻ có trình độ về làm việc cho hợp tác xã trong thời hạn từ 3 - 5 năm…

Đối tượng, nội dung, hình thức đào tạo, bồi dưỡng ngày càng được mở rộng, phong phú và thiết thực. Đối tượng bồi dưỡng bao gồm cán bộ quản lý nhà nước về hợp tác xã ở các địa phương và các chức danh cán bộ chủ chốt của hợp tác xã, thành viên làm công việc chuyên môn kỹ thuật, nghiệp vụ của các hợp tác xã. Nội dung đào tạo, bồi dưỡng khá đa dạng, đáp ứng được một phần yêu cầu tổ chức, quản lý và hoạt động sản xuất, kinh doanh của hợp tác xã, được điều chỉnh phù hợp với điều kiện kinh tế của địa phương, như: hướng dẫn nội dung các văn bản quy phạm pháp luật về hợp tác xã, các văn bản pháp luật liên quan, các vấn đề về tài chính, kế toán, tổ chức quản lý hợp tác xã, hướng dẫn xây dựng kế hoạch, phương án sản xuất, kinh doanh... Hình thức đào tạo, bồi dưỡng tập trung vào tổ chức tập huấn, bồi dưỡng cấp chứng chỉ, đến các hội thảo, hội nghị, tọa đàm trao đổi kinh nghiệm, học tập kết hợp tham quan mô hình thực tế. Phương pháp bồi dưỡng linh hoạt, lý luận đi đôi với thực tiễn, gắn thực hành, hướng dẫn trực quan, “cầm tay chỉ việc” để đem lại hiệu quả cao nhất.

Chất lượng đội ngũ cán bộ quản lý nhà nước về hợp tác xã và cán bộ, thành viên trong các hợp tác xã vùng dân tộc thiểu số và miền núi ngày càng được nâng lên. Thông qua đào tạo, bồi dưỡng góp phần giúp cho đội ngũ cán bộ chuyên trách nâng cao trình độ, kiến thức về loại hình kinh tế tập thể, hợp tác xã, đáp ứng ngày càng tốt hơn công tác quản lý nhà nước về hợp tác xã. Tỷ lệ cán bộ quản lý hợp tác xã có trình độ cao ngày càng tăng. Công tác tổ chức, điều hành hợp tác xã được cải thiện, từng bước kinh doanh hiệu quả, nâng cao chất lượng hợp tác xã yếu kém, trung bình, tăng số lượng hợp tác xã khá, giỏi, với mô hình đa dạng, ngành nghề kinh doanh phù hợp, đáp ứng nhu cầu thị trường.

Hệ thống giáo dục vùng dân tộc thiểu số và miền núi tiếp tục được củng cố, mở rộng, nhất là các trường phổ thông dân tộc nội trú, trường phổ thông dân tộc bán trú, trường dự bị đại học dân tộc; chất lượng giáo dục của các trường phổ thông dân tộc nội trú được nâng lên. Đến nay, có 99,5% số xã có trường tiểu học; 93,2% số xã có trường trung học cơ sở; 12,9% số xã có trường trung học phổ thông và 96,6% số xã có trường mẫu giáo/mầm non; 100% số xã đạt chuẩn phổ cập giáo dục tiểu học, nhiều nơi đã đạt chuẩn phổ cập giáo dục trung học cơ sở. Loại hình trường nội trú, bán trú đang phát triển, hiện nay, cả nước có 294 trường phổ thông dân tộc nội trú với 80.832 học sinh; 4 trường dự bị đại học với trên 3.000 học sinh/năm. Tất cả các tỉnh vùng dân tộc và miền núi đều có trường trung học chuyên nghiệp, cao đẳng, trường dạy nghề và đào tạo nghiệp vụ trong các lĩnh vực nông nghiệp, quản lý kinh tế, tài chính, giáo dục, y tế.

Một số hạn chế và nguyên nhân

Bên cạnh những thành tựu đạt được, công tác đào tạo, bồi dưỡng phát triển nguồn nhân lực cho khu vực kinh tế tập thể, hợp tác xã vùng dân tộc thiểu số và miền núi trong những năm qua vẫn còn một số hạn chế, bất cập:

Số lượng cán bộ, thành viên hợp tác xã được đào tạo, bồi dưỡng còn chiếm tỷ lệ thấp (khoảng 5,3%) so với cả nước, trong khi nhu cầu đào tạo, bồi dưỡng cán bộ quản lý nhà nước về hợp tác xã và thành viên hợp tác xã chưa được tập huấn, bồi dưỡng thường xuyên còn rất lớn. Kinh phí cho các hoạt động đào tạo, bồi dưỡng mặc dù đã được quan tâm nhưng vẫn còn hạn chế so với nhu cầu thực tế.

Nội dung đào tạo, bồi dưỡng thường nặng về lý thuyết, ít nội dung về kinh nghiệm thực tiễn của các hợp tác xã. Đội ngũ giảng viên chưa thực sự chuyên nghiệp, phần lớn là cán bộ kiêm nhiệm, thiếu hệ thống đào tạo chính quy, bài bản, thống nhất trong cả nước.

Trình độ của không ít cán bộ quản lý hợp tác xã vùng dân tộc thiểu số và miền núi còn thấp, năng lực quản trị, điều hành còn hạn chế, thiếu nhạy bén với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học - công nghệ, thị trường, xu thế toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế. Năng lực tham mưu, tổng hợp, chỉ đạo, hướng dẫn của một số cán bộ quản lý nhà nước về hợp tác xã còn hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ được giao.

Lao động trong khu vực kinh tế tập thể, hợp tác xã là người dân tộc thiểu số được đào tạo nghề chưa nhiều, chỉ chiếm trên 14% trong tổng số người dân tộc thiểu số trong độ tuổi lao động; đa số người dân tộc thiểu số mới tham gia học nghề ngắn hạn, số lao động là người dân tộc thiểu số học nghề trình độ trung cấp, cao đẳng nghề rất thấp (chủ yếu tham gia các lớp ngắn hạn dưới 3 tháng và tập trung vào nghề nông nghiệp).

Nhiều lao động người dân tộc thiểu số được đào tạo nhưng không có việc làm hoặc làm những công việc không phù hợp với ngành nghề được đào tạo; lao động học nghề phi nông nghiệp khó có điều kiện áp dụng kiến thức, kỹ thuật vào sản xuất, số lao động người dân tộc thiểu số chuyển đổi từ nông nghiệp sang lĩnh vực công nghiệp, dịch vụ sau học nghề còn hạn chế.

Ngoài chính sách chung đối với giáo viên vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn, đến nay vẫn chưa có chính sách riêng cho giáo viên dạy nghề ở các trường, trung tâm dạy nghề cho người dân tộc thiểu số và giáo viên dạy nghề là người dân tộc thiểu số. Giáo viên trường dạy nghề chưa được hưởng chế độ chính sách như hệ thống các trường chuyên biệt. Các địa phương chưa chú trọng để đào tạo giáo viên dạy nghề là người dân tộc thiểu số.

Đào tạo nghề điện công nghiệp ở Trường Trung cấp Dân tộc nội trú tỉnh Thái Nguyên_Ảnh: TTXVN

Các cơ sở đào tạo nghề vẫn còn những chương trình đào tạo nghề chưa phù hợp với nhu cầu thị trường. Công tác tuyên truyền và định hướng nghề nghiệp và hỗ trợ học viên có việc làm sau đào tạo chưa thực sự có hiệu quả. Việc đầu tư nâng cao năng lực và tăng thu nhập cho giảng viên dạy nghề còn hạn chế.

Những hạn chế nêu trên bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân khác nhau, trong đó có những nguyên nhân đến từ công tác quản lý nhà nước và từ phía người dân.

Từ phía công tác quản lý nhà nước, hầu hết các chính sách chưa đề cập đầy đủ đến tính đặc thù của vùng dân tộc thiểu số và đặc điểm của từng địa phương, vùng, miền, nên còn tình trạng áp dụng máy móc, rập khuôn, cào bằng. Thiếu các chính sách đầu tư chiến lược cho các cơ sở đào tạo nghề và xây dựng xã hội học tập có sự tham gia vào đào tạo nghề của các tổ chức xã hội, các doanh nghiệp.

Nhiều chính sách dạy nghề còn bất cập, chưa phân rõ trách nhiệm của cơ quan thực hiện chương trình tại địa phương. Việc hướng dẫn triển khai thực hiện chính sách thiếu kịp thời, công tác giám sát thực thi chính sách chưa được quan tâm đúng mức.

Ở nhiều nơi, chính quyền địa phương các cấp, các cơ quan liên quan chưa quan tâm đầy đủ đến công tác phát triển nguồn nhân lực khu vực kinh tế tập thể, hợp tác xã, nên công tác đào tạo nghề cho lao động vùng dân tộc thiểu số chưa gắn kết với các chính sách, kế hoạch phát triển kinh tế, xã hội cụ thể. Nhiều địa phương còn thụ động trong xây dựng kế hoạch tư vấn việc làm và các chương trình đào tạo nghề.

Việc tổ chức lớp học cho đồng bào dân tộc thiểu số gặp nhiều khó khăn do điều kiện giao thông không thuận lợi, cách thức tổ chức lớp học chưa phù hợp với tập quán sản xuất, văn hóa và địa bàn, nên chưa thu hút được người tham gia. Nguồn kinh phí bố trí thực thi chính sách hỗ trợ phát triển nguồn nhân lực vùng dân tộc thiểu số và miền núi có lúc, có nơi được sử dụng chưa đúng, không hiệu quả.

Lao động là đồng bào dân tộc thiểu số ít có điều kiện để áp dụng kiến thức, kỹ năng được học trong công việc do điều kiện địa lý, giao thông không thuận tiện, sản xuất quy mô nhỏ, trình độ còn lạc hậu.

Đối với người dân, do trình độ của người dân vùng dân tộc thiểu số không đồng đều, đa số chưa qua đào tạo nghề, một bộ phận lớn tuổi, trình độ văn hóa, khả năng tiếp thu kiến thức hạn chế, nên ngại đi học và cũng chưa chủ động tìm kiếm việc làm. Còn tâm lý là đi học nghề sẽ mất thời gian, phải nghỉ việc nên mất đi thu nhập đang có...; đặc biệt là tập quán sinh hoạt cộng đồng, tâm lý ngại thay đổi môi trường sống, thay đổi cách thức làm ăn, nên đồng bào chưa nhận thức đúng, chưa hiểu được tầm quan trọng của việc học nghề để lập nghiệp.

Do đại bộ phận đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi khu vực kinh tế tập thể, hợp tác xã sản xuất nông, lâm nghiệp là chủ yếu, nên còn mang nặng tác phong của nền kinh tế tiểu nông, tự cấp tự túc (tùy tiện về giờ giấc, hành vi), chưa được trang bị kiến thức, kỹ năng, tinh thần và thái độ làm việc của nền sản xuất công nghiệp. Hơn nữa, tình trạng bảo thủ, trì trệ, ngại đổi mới, làm theo kinh nghiệm hơn là sáng tạo, đã ăn sâu trong tiềm thức của một bộ phận không nhỏ lao động là đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi. Bên cạnh đó, một số chính sách còn chưa khuyến khích tinh thần tự lực, tự tạo sinh kế, dẫn đến tâm lý ỷ lại ở bà con.

Những giải pháp quan trọng

Từ thực trạng trên, để xây dựng, phát triển nguồn nhân lực có chất lượng cho các hợp tác xã vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, cần thực hiện tốt một số giải pháp:

Thứ nhất, tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng, Nhà nước, phát huy vai trò của các bộ, ngành, địa phương trong đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực hợp tác xã vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi. Nghị quyết số 20-NQ/TW, ngày 16-6-2022, của Hội nghị Trung ương 5 khóa XIII, “Về tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể trong giai đoạn mới” đã xác định những chủ trương, biện pháp quan trọng nâng cao chất lượng công tác đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực hợp tác xã trong những năm tới. Các bộ, ngành, địa phương theo chức năng, nhiệm vụ, cần cụ thể hóa và ban hành các chính sách đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực và nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác quản lý nhà nước về kinh tế tập thể, hợp tác xã.

Thứ hai, củng cố, nâng cao chất lượng các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng và đội ngũ cán bộ, giảng viên làm công tác giảng dạy về kinh tế tập thể, hợp tác xã vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi. Tập trung nâng cao chất lượng các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng hiện có và các trường dạy nghề. Đầu tư nâng cao chất lượng kết cấu hạ tầng, chuẩn hóa hệ thống giáo trình, tài liệu đáp ứng yêu cầu giảng dạy, học tập. Từ đó, có quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ quản lý hợp tác xã, dạy nghề cho thành viên hợp tác xã một cách bài bản, từ khâu tuyển sinh, đào tạo, bồi dưỡng đến tạo việc làm sau khi ra trường.

Đội ngũ cán bộ, giảng viên làm công tác giảng dạy về kinh tế tập thể, hợp tác xã vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi cần được đào tạo bài bản và được chuẩn hóa theo quy định. Thường xuyên tổ chức các lớp tập huấn, bồi dưỡng, cập nhật kiến thức về tình hình kinh tế - xã hội, kiến thức chuyên sâu về kinh tế tập thể, hợp tác xã, tổ chức tham quan, nghiên cứu thực tế, học tập kinh nghiệm các mô hình hợp tác xã điển hình trong và ngoài nước, góp phần nâng cao trình độ, kiến thức, đáp ứng yêu cầu công tác giảng dạy.

Thứ ba, mở rộng đối tượng, đổi mới nội dung, hình thức đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực của các hợp tác xã vùng dân tộc thiểu số và miền núi. Theo đó, ngoài việc bồi dưỡng đội ngũ cán bộ liên quan đến hợp tác xã, cần mở rộng ra cả đối tượng đào tạo là cán bộ phụ trách lĩnh vực phát triển kinh tế tập thể, hợp tác xã ở các bộ, ngành, chính quyền địa phương trong cả nước. Nội dung bồi dưỡng toàn diện nhưng có trọng tâm, trọng điểm, chuyên sâu, gắn với từng ngành, nghề, lĩnh vực sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và đặc thù của vùng, miền, địa phương, đáp ứng yêu cầu phát triển hợp tác xã trong điều kiện mới, nhất là sự phát triển mạnh mẽ của khoa học - công nghệ và môi trường cạnh tranh, hội nhập quốc tế sâu rộng. Hình thức đào tạo, bồi dưỡng linh hoạt, sáng tạo, vận dụng phù hợp với từng đối tượng, loại hình hợp tác xã, điều kiện, khả năng hiện có của cả đơn vị tổ chức và đối tượng được đào tạo, bồi dưỡng.

Thứ tư, thiết lập và mở rộng hợp tác đào tạo nguồn nhân lực về kinh tế tập thể, hợp tác xã vùng dân tộc thiểu số và miền núi với các cơ sở đào tạo ở trong và ngoài nước. Đa dạng hóa các hình thức liên kết, hợp tác đào tạo với các trường cao đẳng, đại học, viện nghiên cứu. Đưa chương trình đào tạo về kinh tế tập thể, hợp tác xã vào một số trường đại học, một số cơ sở đào tạo, bồi dưỡng cán bộ tại các tỉnh, thành phố; đưa nội dung kinh tế tập thể, hợp tác xã vào giảng dạy chính thức tại các lớp lý luận chính trị, lớp bồi dưỡng quản lý nhà nước cho đội ngũ cán bộ, công chức.

Tăng cường hợp tác với các nước, đặc biệt là tổ chức hợp tác xã của các nước có điều kiện phát triển tương đồng với Việt Nam; hằng năm, cử cán bộ trẻ đi đào tạo chính quy về kinh tế tập thể, hợp tác xã tại một số quốc gia có phong trào hợp tác xã phát triển mạnh và có cơ sở đào tạo tốt. Thường xuyên phối hợp với các nước tổ chức hội thảo, tọa đàm, trao đổi kinh nghiệm trong lĩnh vực kinh tế tập thể nói chung và trong lĩnh vực đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực của các hợp tác xã nói riêng.

Thứ năm, huy động các nguồn lực cho đầu tư phát triển nguồn nhân lực dân tộc thiểu số chất lượng cao. Trong đó, cần tăng đầu tư của Nhà nước cho phát triển nhân lực, nhất là đầu tư cho giáo dục, y tế và chăm sóc sức khỏe nhân dân. Đẩy mạnh xã hội hóa để phát triển nhân lực. Đồng thời, khuyến khích các hợp tác xã đầu tư cho đào tạo nhân lực với các hình thức khác nhau, nhất là việc thành lập cơ sở đào tạo trong hợp tác xã, gắn đào tạo với nhu cầu của hợp tác xã, nhu cầu xã hội. Tăng cường đàm phán, vận động và xúc tiến đầu tư để thu hút các nguồn vốn từ ngoài nước, như vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, vốn viện trợ chính thức và tài trợ của các tổ chức, cá nhân người nước ngoài, vốn của cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài…, trong đó, cần có sự tham gia tích cực của tất cả các cấp, các ngành, của người dân.

Thứ sáu, chú trọng phát triển nguồn nhân lực có chất lượng đối với vùng dân tộc thiểu số và miền núi. Triển khai các kế hoạch, biện pháp giải quyết hiệu quả những vấn đề vừa cấp bách, vừa lâu dài của nguồn nhân lực, tạo chuyển biến thật sự mạnh mẽ trong việc đào tạo, sử dụng nguồn nhân lực. Các địa phương cần có những cơ chế, chính sách hợp lý về sử dụng nguồn nhân lực có chất lượng để thu hút nhân tài, khắc phục tình trạng “chảy máu chất xám”, đặc biệt là ở vùng dân tộc thiểu số và miền núi.

Tăng cường thông tin rộng rãi về nguồn nhân lực, làm cho người dân, đặc biệt là đồng bào vùng dân tộc thiểu số và miền núi thấy được tầm quan trọng của phát triển nguồn nhân lực trong giai đoạn hiện nay. Hằng năm, cần tổng kết, đánh giá đúng những mặt được và chưa được, kịp thời rút kinh nghiệm để xây dựng chính sách mới và điều chỉnh chính sách đã có về nguồn nhân lực cho phù hợp.

Thứ bảy, tiếp tục đổi mới nhận thức về phát triển, sử dụng, quản lý nguồn nhân lực dân tộc thiểu số nói chung và nguồn nhân lực dân tộc thiểu số có chất lượng nói riêng. Phát triển nguồn nhân lực là một giải pháp quan trọng góp phần phát triển nhanh và bền vững vùng dân tộc thiểu số và miền núi trong bối cảnh đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới. Đẩy nhanh tốc độ triển khai Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021 - 2030 theo tinh thần Nghị quyết số 88/2019/QH14, ngày 18-11-2019, của Quốc hội về “Phê duyệt Đề án tổng thể phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021 - 2030”. Đây là cơ sở, tiền đề quan trọng để các địa phương được thụ hưởng chính sách đặc biệt của Đảng và Nhà nước quyết tâm chỉ đạo xây dựng cơ sở dữ liệu, xác định nhu cầu đào tạo, xác định phương thức đào tạo, gắn đào tạo với sử dụng nhân lực. Đồng thời, các tỉnh có cơ chế, chính sách thu hút học sinh, sinh viên đã tốt nghiệp được trang bị các kiến thức, kỹ năng tại các trường nghề, các trường đào tạo về nông nghiệp và phát triển nông thôn về công tác tại địa phương./.