Bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế

Trần Văn Hải TS. Chủ nhiệm khoa Khoa học quản lý, Đại học KHXH và NV, Đại học Quốc gia Hà Nội
16:26, ngày 17-11-2011
TCCSĐT - Thời gian qua, các phương tiện thông tin đại chúng dồn dập đưa tin “Thương hiệu cà phê Buôn Ma Thuột có nguy cơ bị mất”(1). Tin này đã gây sốc cho nhiều doanh nghiệp Việt Nam, nhưng lại không mới đối với giới nghiên cứu sở hữu trí tuệ. Các chuyên gia trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ đã lưu ý các doanh nghiệp Việt Nam về khả năng bị mất tài sản trí tuệ của mình, không chỉ tại thị trường nước ngoài mà còn bị mất ngay tại thị trường trong nước.

Giới hạn của thuật ngữ “quyền sở hữu trí tuệ”

Luật Sở hữu trí tuệ (SHTT) chỉ rõ quyền sở hữu trí tuệ là quyền của tổ chức, cá nhân đối với tài sản trí tuệ, bao gồm quyền tác giả và quyền liên quan đến quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp và quyền đối với giống cây trồng. Đối tượng quyền tác giả bao gồm: tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học; đối tượng quyền liên quan đến quyền tác giả bao gồm: cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng, tín hiệu vệ tinh mang chương trình được mã hoá. Đối tượng quyền sở hữu công nghiệp bao gồm: sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn, bí mật kinh doanh, nhãn hiệu, tên thương mại và chỉ dẫn địa lý. Đối tượng quyền đối với giống cây trồng là vật liệu nhân giống và vật liệu thu hoạch.

Trong bài viết này, thuật ngữ “quyền SHTT” được giới hạn bởi nhãn hiệu, tên thương mại và chỉ dẫn địa lý - ba đối tượng này đều thuộc nhóm được bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp (SHCN), có thể liên quan đến tất cả mọi doanh nghiệp. Trong thực tế thực thi quyền SHTT, chúng thường bị xâm phạm nhiều nhất và một số trường hợp doanh nghiệp đã tự đánh mất chúng.

Điều 4.16 Luật SHTT định nghĩa: Nhãn hiệu là dấu hiệu dùng để phân biệt hàng hóa, dịch vụ của các tổ chức, cá nhân khác nhau.

Điều 4.21 Luật SHTT định nghĩa: Tên thương mại là tên gọi của tổ chức, cá nhân dùng trong hoạt động kinh doanh để phân biệt chủ thể kinh doanh mang tên gọi đó với chủ thể kinh doanh khác trong cùng lĩnh vực và khu vực kinh doanh.

Điều 4.22 Luật SHTT định nghĩa: Chỉ dẫn địa lý là dấu hiệu dùng để chỉ sản phẩm có nguồn gốc từ khu vực, địa phương, vùng lãnh thổ hay quốc gia cụ thể.

Điểm cần lưu ý là nhãn hiệu, tên thương mại và chỉ dẫn địa lý là ba đối tượng được bảo hộ độc lập với nhau, không thể quan niệm rằng đã được bảo hộ đối tượng này thì đương nhiên cũng được bảo hộ đối tượng kia.

Nguyên tắc bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp

Việt Nam gia nhập Công ước Paris từ 8-3-1949, số lượng các quốc gia thành viên của Công ước Paris rất lớn, trong số đó có Hoa Kỳ và nhiều nước châu Âu.

Nguyên tắc bảo hộ độc lập. Nhãn hiệu, tên thương mại và chỉ dẫn địa lý thuộc nhóm được bảo hộ quyền SHCN, việc bảo hộ chúng tuân theo nguyên tắc độc lập do Công ước Paris quy định, có nghĩa là quốc gia nào cấp văn bằng bảo hộ quyền SHCN thì văn bằng ấy chỉ có hiệu lực bảo hộ trên lãnh thổ quốc gia đó. Nghĩa là, khi Cục SHTT Việt Nam cấp Giấy chứng nhận Chỉ dẫn địa lý Buôn Ma Thuột cho sản phẩm cà phê nhân thì không bắt buộc các quốc gia khác cũng phải bảo hộ đối tượng này.

Nguyên tắc quyền ưu tiên. Công ước Paris quy định quyền ưu tiên 6 tháng đối với nhãn hiệu. Trong thực tế, một số doanh nghiệp Việt Nam đã không biết đến các nguyên tắc bảo hộ quyền SHCN để tự đánh mất tài sản trí tuệ của mình.

Doanh nghiệp tự đánh mất tài sản trí tuệ tại thị trường trong nước

Không phân biệt được các đối tượng khác nhau của quyền SHTT. Nhãn hiệu, tên thương mại và chỉ dẫn địa lý là các đối tượng độc lập với nhau, nhưng trong thực tế một số doanh nghiệp lại tự cho rằng đã được bảo hộ đối tượng này thì đương nhiên cũng được bảo hộ đối tượng kia, hậu quả dẫn đến việc tự đánh mất khả năng yêu cầu bảo hộ quyền SHCN. Trường hợp hai doanh nghiệp lớn do Chính phủ ra quyết định thành lập là những ví dụ:

Ngày 24-5-1995, Thủ tướng Chính phủ ra Quyết định số 311/TTg về việc thành lập Tổng Công ty Lương thực Miền Nam có tên giao dịch quốc tế là VIETNAM SOUTHERN FOOD CORPORATION, viết tắt là VINAFOOD II. Cùng ngày, Thủ tướng Chính phủ cũng ra Quyết định số 312/TTg về việc thành lập Tổng Công ty Lương thực Miền Bắc có tên giao dịch quốc tế là VIETNAM NORTHERN FOOD CORPORATION, viết tắt là VINAFOOD I. VINAFOOD I và VINAFOOD II trong các quyết định nói trên của Thủ tướng Chính phủ chỉ là tên thương mại, nhưng một thời gian dài sau đó, cả 2 tổng công ty này đều dùng VINAFOOD I và VINAFOOD II như là nhãn hiệu để in trên bao bì sản phẩm của mình.

Ngày 28-6-2002 Tổng Công ty Lương thực Miền Nam nộp đơn yêu cầu bảo hộ nhãn hiệu VINAFOOD II cho nhóm 29 và 30 và đã được Cục SHTT cấp Đăng bạ quốc gia nhãn hiệu hàng hóa vào ngày 20-06-2003. Ngày 6-12-2006, Tổng Công ty Lương thực Miền Bắc

mới nộp đơn yêu cầu bảo hộ nhãn hiệu VINAFOOD I, nhưng đã bị Cục SHTT ra quyết định từ chối bảo hộ vì: VINAFOOD I đã “tương tự tới mức gây nhầm lẫn” với VINAFOOD II. Bởi vậy, ngày 17-9-2007 Tổng Công ty Lương thực Miền Bắc đã buộc phải nộp yêu cầu bảo hộ nhãn hiệu VNF1 và sau đó đã được cấp Giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu VNF1.

Như vậy, Tổng Công ty Lương thực miền Nam được sở hữu nhãn hiệu trùng với tên thương mại của mình, chắc chắn sẽ thuận lợi hơn trong giao dịch thương mại. Nếu giả định rằng, hai tổng công ty này cùng đăng ký để sở hữu nhãn hiệu tập thể VINAFOOD, sau đó phân nhánh VINAFOOD I và VINAFOOD II thì sẽ thuận lợi cho cả hai, nhưng tiếc rằng điều giả định này đã không diễn ra.

Buộc phải thay đổi tên thương mại vì đã có doanh nghiệp khác sở hữu nhãn hiệu. Câu lạc bộ bóng đá Vinakansai (do Công ty trách nhiệm hữu hạn xi măng Vinakansai Ninh Bình tài trợ nhằm quảng cáo cho xi măng Vinakansai) đã chi ra những số tiền khổng lồ nhằm giành chiến thắng trên thị trường chuyển nhượng cầu thủ. Nhưng một thời gian sau, tên Vinakansai của cả đội bóng và công ty xi măng đã biến mất, thay vào đó là một cái tên khác "Câu lạc bộ bóng đá Xi măng The Vissai Ninh Bình" do Tập đoàn xi măng The Vissai Ninh Bình tài trợ.

 Nguyên nhân của hiện tượng này là doanh nghiệp không khảo sát để biết đã có một doanh nghiệp khác nộp đơn yêu cầu bảo hộ (hoặc đang được bảo hộ) nhãn hiệu. Xin lưu ý: nếu có hai chủ thể trở lên cùng nộp đơn yêu cầu bảo hộ một đối tượng SHCN thì Cục SHTT chỉ cấp văn bằng bảo hộ cho chủ thể nộp đơn trước.

Tài liệu lưu trữ tại Cục SHTT cho thấy ngày 26-7-2007, Công ty TNHH Xi măng Vinakansai đã nộp đơn yêu cầu Cục SHTT bảo hộ nhãn hiệu Vinakansai, nhưng đến ngày 20-10-2008, Cục SHTT đã ra thông báo kết quả thẩm định nội dung số 64438/SHTT-NH1 với nội dung từ chối bảo hộ nhãn hiệu Vinakansai vì đã gây nhầm lẫn với nhãn hiệu đang được bảo hộ tại Việt Nam mà chủ sở hữu là Công ty cổ phần thép cũng mang tên Vinakansai có trụ sở tại Km 18, quốc lộ 5, xã Lê Thiện, huyện An Dương, thành phố Hải Phòng. Do vậy, Xi măng Vinakansai Ninh Bình đã buộc phải đổi tên thành Xi măng The Vissai Ninh Bình. Như vậy, trong thực tế Xi măng Vinakansai Ninh Bình đã đầu tư tài chính để quảng cáo “không công” cho một doanh nghiệp khác. Trong “cuộc chiến SHTT” này, một doanh nghiệp nhỏ đã thắng một doanh nghiệp lớn.

Doanh nghiệp tự đánh mất tài sản trí tuệ tại thị trường nước ngoài

Không nắm được nguyên tắc bảo hộ độc lập. Công ước Paris quy định việc bảo hộ nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý tuân theo nguyên tắc độc lập, có nghĩa là quốc gia nào cấp văn bằng bảo hộ quyền SHCN thì văn bằng chỉ có hiệu lực bảo hộ trên lãnh thổ quốc gia đó. Trong thực tế, nhiều doanh nghiệp Việt Nam không nắm được nguyên tắc này để dẫn đến thất bại tại thị trường nước ngoài, bài viết xin phân tích trường hợp một doanh nghiệp lớn đã mắc lỗi này.

Tổng Công ty Thuốc lá Việt Nam được Cục SHTT cấp văn bằng số 4-0001481-000 vào ngày 19-5-1990 bảo hộ nhãn hiệu VINATABA cho nhóm sản phẩm số 34 thuốc lá điếu, nhưng trong một thời gian dài Tổng Công ty Thuốc lá Việt Nam không đăng ký yêu cầu bảo hộ nhãn hiệu VINATABA tại thị trường các quốc gia mà Tổng Công ty dự định xuất khẩu thuốc lá.

 Nguyên nhân của hiện tượng này là doanh nghiệp không nắm được nguyên tắc bảo hộ độc lập theo quy định của Công ước Paris, dẫn đến không đăng ký bảo hộ nhãn hiệu tại các quốc gia có thị trường mà mình dự định xuất khẩu sản phẩm/dịch vụ.

Năm 2001, Công ty Putra Satbat Industry có trụ sở tại Indonexia đã đăng ký bảo hộ nhãn hiệu VINATABA cũng cho nhóm sản phẩm số 34 thuốc lá điếu tại 13 nước, trong đó có các quốc gia láng giềng của Việt Nam như Lào, Campuchia và Trung Quốc. Điểm đáng chú ý là Công ty Putra Satbat Industry hoàn toàn biết rõ thông tin nhãn hiệu VINATABA cho nhóm sản phẩm 34 đã thuộc về Tổng Công ty Thuốc lá Việt Nam trên lãnh thổ Việt Nam. Bởi vậy, Tổng Công ty Thuốc lá Việt Nam đã phải tiến hành các thủ tục pháp lý, nhưng mới chỉ dành lại quyền sở hữu nhãn hiệu VINATABA tại Campuchia, đương nhiên nếu xuất khẩu thuốc lá mang nhãn hiệu VINATABA sang các quốc gia khác thì Tổng Công ty Thuốc lá Việt Nam phải trả phí license nhãn hiệu VINATABA (của mình) cho Công ty Putra Satbat Industry.

Nhãn hiệu không có khả năng phân biệt với thị trường nước ngoài. Ngân hàng Công thương Việt Nam được thành lập từ năm 1988, có tên giao dịch là Incombank. Trong khoảng 20 năm, Ngân hàng Công thương Việt Nam đã lấy tên thương mại Incombank của mình làm nhãn hiệu dịch vụ mà không đăng ký với Cục SHTT để yêu cầu được cấp Giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu Incombank.Các thông tin trong cơ sở dữ liệu của Tổ chức SHTT thế giới (WIPO) cho thấy đơn nhãn hiệu quốc tế số 603176 ngày 20-5-1993 (5 năm sau khi Ngân hàng Công thương Việt Nam được thành lập) đăng ký nhãn hiệu INKOM BANK do một ngân hàng thương mại của Nga đăng ký có chỉ định tại Việt Nam.

Giả định rằng trước ngày 20-5-1993, Ngân hàng Công thương Việt Nam đã nộp đơn cho Cục SHTT yêu cầu bảo hộ nhãn hiệu Incombank thì đơn nhãn hiệu quốc tế số 603176 đã bị vô hiệu khi chỉ định bảo hộ nhãn hiệu Inkombank vào thị trường Việt Nam.

Hậu quả là Ngân hàng Công thương Việt Nam đã không thể sở hữu hợp pháp nhãn hiệu Incombank ngay trên lãnh thổ Việt Nam, để có thể xuất khẩu dịch vụ tài chính, ngân hàng ra thị trường nước ngoài, Ngân hàng Công thương Việt Nam đã buộc phải thay đổi nhãn hiệu thành Vietinbank.

Qua đây, xin cảnh báo về khả năng xấu có thể xảy ra đối với một số ngân hàng của Việt Nam khi xuất khẩu dịch vụ của mình ra nước ngoài, mà nguyên nhân là nhãn hiệu mang các âm tiết không có khả năng phân biệt. Đó là, Incombank, Techcombank, Agribank, Eximbank... Như vậy, việc một số doanh nghiệp Việt Nam tự đánh mất tài sản trí tuệ của mình ở thị trường trong nước và nước ngoài, đồng thời một số doanh nghiệp khác cũng có thể gặp khả năng xấu đối với thị trường nước ngoài là hiện tượng đáng báo động. Sau đây, chúng tôi xin phân tích trường hợp điển hình khác.

Trường hợp cà phê Buôn Ma Thuột

Vào năm 2005, Cục SHTT Việt Nam cấp Giấy chứng nhận Chỉ dẫn địa lý Buôn Ma Thuột cho sản phẩm cà phê nhân (số đăng bạ 00004). Nhưng trong một khoảng thời gian rất dài, chúng ta đã không phát triển “Buôn Ma Thuột cho sản phẩm cà phê” ra thị trường các nước có khả năng tiêu thụ cà phê của chúng ta. Lỗi này thuộc chúng ta, vì có thể chúng ta đã không nắm được nguyên tắc bảo hộ độc lập theo quy định của Công ước Paris mà tự cho rằng mình có quyền xuất khẩu cà phê Buôn Ma Thuột sang thị trường quốc gia nào mà mình muốn.

Hậu quả là Guangzhou Buon Ma Thuot Coffee Co., Ltd. (một doanh nghiệp của Trung Quốc) đã đăng ký yêu cầu bảo hộ nhãn hiệu "BUON MA THUOT & chữ Trung Quốc" và "BUON MA THUOT COFFEE 1896 & logo".

Trong quá khứ, một số doanh nghiệp Việt Nam đã bị mất tài sản trí tuệ của mình tại thị trường nước ngoài, đó cũng chỉ là tài sản trí tuệ của riêng doanh nghiệp. Nhưng với Chỉ dẫn địa lý Buôn Ma Thuột cho cà phê thì không phải là tài sản trí tuệ của riêng doanh nghiệp nào nữa, mà đây là tài sản trí tuệ do Nhà nước là chủ sở hữu, của “chúng ta”. Trách nhiệm cụ thể thuộc về tổ chức đã được Nhà nước giao quyền quản lý/khai thác Chỉ dẫn địa lý Buôn Ma Thuột cho sản phẩm cà phê.

Nếu chúng ta không dành lại được quyền sở hữu đối với “Buôn Ma Thuột cho sản phẩm cà phê” thì hậu quả chắc chắn là chúng ta không thể xuất khẩu cà phê mang Chỉ dẫn địa lý Buôn Ma Thuột sang thị trường Trung Quốc. Có thể Guangzhou Buon Ma Thuot Coffee Co., Ltd. sử dụng quyền ưu tiên 6 tháng đối với nhãn hiệu theo quy định của Công ước Pa-ri để phát triển hai nhãn hiệu trên sang thị trường của các quốc gia là thành viên của Công ước Paris. Mặt khác, Guangzhou Buon Ma Thuot Coffee Co., Ltd. cũng có thể đã sử dụng Thỏa ước Ma-đrít về đăng ký quốc tế nhãn hiệu hàng hóa và Nghị định thư liên quan đến Thỏa ước Ma-đrít để phát triển hai nhãn hiệu trên ra thị trường nước ngoài.

Chúng ta thấy rằng Việt Nam và Trung Quốc đều là các quốc gia đã phê chuẩn cả 3 văn bản quốc tế vừa nêu trên, trong khi một doanh nghiệp của Trung Quốc đã biết khai thác 3 văn bản này, nhưng chúng ta thì không biết tận dụng ưu thế mà cả 3 văn bản này quy định.

Giải pháp

Giải pháp chung. Trên thực tế, nhiều doanh nghiệp Việt Nam đã tự đánh mất tài sản trí tuệ của mình, để khắc phục tình trạng này, xin đề xuất mấy giải pháp chung:

- Nên sử dụng quyền ưu tiên 6 tháng đối với nhãn hiệu theo quy định của Công ước Paris để phát triển nhãn hiệu ra nước ngoài.

- Sử dụng Thỏa ước Ma-đrít về đăng ký quốc tế nhãn hiệu hàng hóa để phát triển nhãn hiệu của mình sang thị trường các nước khác đối với trường hợp đã được Cục SHTT Việt Nam cấp Giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu.

- Sử dụng Nghị định thư liên quan đến Thỏa ước Ma-đrít để phát triển nhãn hiệu của mình sang thị trường các nước khác đối với trường hợp đã nộp đơn yêu cầu Cục SHTT Việt Nam cấp Giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu. 

Giải pháp đối với “Buôn Ma Thuột cho sản phẩm cà phê”. Điều 10.8 Luật Nhãn hiệu của Trung Quốc (Trademark Law of the People's Republic of China) quy định(2): ...các tên địa lý như các đơn vị hành chính, tên địa lý nước ngoài được công chúng biết đến không được sử dụng là nhãn hiệu.

Mặt khác, điều 16 Luật Nhãn hiệu của Trung Quốc cũng quy định(3): … nếu nhãn hiệu chứa một chỉ dẫn địa lý của hàng hóa mang nhãn hiệu không phải là từ khu vực ghi trong giấy phép và lừa dối công chúng, thì bị từ chối đăng ký và cấm sử dụng…

Qua đó cho thấy, chúng ta có thể sử dụng pháp luật của Trung Quốc để dành lại quyền sở hữu đối với tài sản trí tuệ của chúng ta, những việc phải làm là:

- Chứng minh doanh nghiệp Trung Quốc chắc chắn biết Buôn Ma Thuột là một địa danh của Việt Nam. Việc này làm được vì chúng ta đã 3 lần tổ chức Lễ hội Cà phê Buôn Ma Thuột, tham dự Lễ hội có các doanh nhân Trung Quốc, VTV đã truyền hình trực tiếp các lần tổ chức Lễ hội này;

- Chứng minh cà phê do Guangzhou Buon Ma Thuot Coffee Co., Ltd. bán trên thị trường không có xuất xứ từ Buôn Ma Thuột (vì Công ty này không phải là đại lý tiêu thụ cà phê cho chúng ta), nếu Công ty này cho rằng cà phê do họ bán trên thị trường có xuất xứ từ Buôn Ma Thuột thì chính họ đã lừa dối khách hàng.

Như vậy, việc dành lại quyền sở hữu “Buôn Ma Thuột cho sản phẩm cà phê” tại thị trường Trung Quốc là có thể.

Nhưng có thể chúng ta sẽ mất “Buôn Ma Thuột cho sản phẩm cà phê” tại thị trường các nước mà Guangzhou Buon Ma Thuot Coffee Co., Ltd. có thể đã phát triển hai nhãn hiệu trên.

Nếu khả năng xấu này xảy ra thì hậu quả mà chúng ta phải gánh chịu là:

- Có thể giành lại quyền sở hữu “Buôn Ma Thuột cho sản phẩm cà phê” tại thị trường các nước mà Luật Nhãn hiệu có điều khoản quy định tương tự như điều 10.8 và điều 16 Luật Nhãn hiệu của Trung Quốc, với điều kiện phải làm thủ tục pháp lý đối với lần lượt từng quốc gia.

- Chắc chắn mất quyền sở hữu “Buôn Ma Thuột cho sản phẩm cà phê” tại thị trường các nước mà Luật Nhãn hiệu không có điều khoản quy định tương tự như điều 10.8 và điều 16 Luật Nhãn hiệu của Trung Quốc. Như đã phân tích nguyên tắc bảo hộ độc lập theo quy định của Công ước Paris, khi Trung Quốc từ chối bảo hộ nhãn hiệu "BUON MA THUOT & chữ Trung Quốc" và "BUON MA THUOT COFFEE 1896 & logo" thì không nhất thiết các quốc gia khác cũng phải từ chối bảo hộ chúng./.

------------------------------------------------------

(1) http://www.cand.com.vn/vi-VN/kinhte/2011/9/155989.cand  và các nguồn thông tin khác

(2) Article 10.8. The following signs shall not be used as trademarks:... The geographical names as the administrative divisions at or above the county level and the foreign geographical names well known to the public shall not be used as trademarks.


(3) Article 16. Where a trademark contains a geographic indication of the goods in respect of which the trademark is used, the goods is not from the region indicated therein and it misleads the public, it shall be rejected for registration and prohibited from use…