Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong cơ chế phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp
13:09, ngày 18-06-2025
TCCS - Thời gian qua, thực hiện chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền theo quy định của Hiến pháp và pháp luật, Viện kiểm sát nhân dân đã thực hiện tốt vai trò, trách nhiệm trong cơ chế phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp, góp phần bảo vệ Hiến pháp, pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, góp phần bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất.
Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch nước Lương Cường thăm và làm việc với Viện Kiểm sát nhân dân tối cao _Ảnh: qdnd.vn
Thể chế hóa Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011), Hiến pháp năm 2013 đề cập cách thức tổ chức quyền lực theo cơ chế phân công, phối hợp, kiểm soát trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, theo đó “Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”(1). Nguyên tắc này nhằm bảo đảm sự thống nhất của quyền lực nhà nước, sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp; đồng thời, là cơ sở để đánh giá chất lượng, hiệu quả hoạt động trong thực hiện quyền lực nhà nước, đáp ứng yêu cầu Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và nhân dân làm chủ. Vì vậy, trong những năm qua, Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm đến cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước nói chung, quyền lực nhà nước trong lĩnh vực tư pháp nói riêng. Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã ban hành nhiều nghị quyết, chỉ thị, kết luận,... nhằm tăng cường xây dựng và hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực, đáp ứng yêu cầu tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn mới, bảo đảm việc kiểm soát quyền lực nhà nước được thực hiện một cách đầy đủ theo quy định của Hiến pháp và pháp luật; đồng thời, việc kiểm soát quyền lực nhà nước phải được thực hiện trên nguyên tắc tôn trọng dân chủ, vì lợi ích của đất nước và nhân dân. Nghị quyết số 27-NQ/TW, ngày 9-11-2022, của Hội nghị Trung ương 6 (khóa XIII), “Về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới” đặt ra nhiệm vụ hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước; đẩy mạnh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực và nhiệm vụ xây dựng nền tư pháp chuyên nghiệp, hiện đại, công bằng, nghiêm minh, liêm chính, phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân.
Theo quy định của Hiến pháp và pháp luật, viện kiểm sát nhân dân (VKSND) là một thiết chế hiến định, có chức năng: “Thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp; có nhiệm vụ bảo vệ Hiến pháp, pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, góp phần bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất”(2).
Vai trò của viện kiểm sát nhân dân trong cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước
Kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp phải luôn đặt dưới sự lãnh đạo tuyệt đối của Đảng, đồng thời có sự phân công, phối hợp chặt chẽ giữa cơ quan tư pháp (cơ quan điều tra, tòa án, viện kiểm sát, cơ quan thi hành án) nhằm thực hiện hiệu quả quyền năng luật định và đáp ứng nhiệm vụ, mục tiêu chung, tuân thủ quy định của Hiến pháp và pháp luật. Bản chất việc phân công, phối hợp và kiểm soát quyền tư pháp là nhằm xây dựng một nền tư pháp mạnh, đấu tranh và phòng ngừa hiệu quả tội phạm và vi phạm pháp luật, đặc biệt là đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong tình hình hiện nay.
Viện kiểm sát nhân dân có chức năng thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp. Vai trò của VKSND xuất phát từ yêu cầu bảo đảm tính thống nhất của pháp chế, bảo đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất, đồng thời xuất phát từ yêu cầu khách quan của kiểm soát việc thực hiện quyền lực nhà nước, cần có sự kiểm tra, giám sát việc thực hiện quyền lực nhà nước nói chung và việc thực hiện quyền tư pháp nói riêng. Hoạt động tư pháp là hoạt động do cơ quan tư pháp thực hiện trên cơ sở quy định của pháp luật. Hoạt động tư pháp có phạm vi rất rộng, thuộc nhiều lĩnh vực (bao gồm lĩnh vực hình sự, dân sự, kinh doanh, thương mại, lao động, hành chính, thi hành án...) do nhiều cơ quan tiến hành và đặc biệt ảnh hưởng trực tiếp tới quyền, lợi ích hợp pháp, thậm chí sinh mạng chính trị, sự tồn tại của cá nhân, cơ quan, tổ chức, pháp nhân thương mại. Hoạt động tư pháp muốn hiệu quả, tranh chấp muốn được giải quyết nhanh chóng, quyền và lợi ích hợp pháp của nhà nước, xã hội, của cá nhân và pháp nhân muốn được bảo đảm một cách tốt nhất thì cần có một cơ chế giám sát, kiểm soát từ bên ngoài cơ quan tư pháp. Mặc dù, trong thực tiễn vận hành và phát triển, cũng như cơ quan nhà nước khác, trong nội bộ cơ quan điều tra, tòa án, cơ quan thi hành án đều có bộ phận thực hiện sự kiểm tra, kiểm soát nội bộ, tuy nhiên sự kiểm tra, kiểm soát nội bộ đó khó bảo đảm tính khách quan do vẫn chịu sự chỉ đạo của người đứng đầu cơ quan; vì vậy, cần có cơ quan chuyên trách giám sát từ bên ngoài và ngay cả bộ phận thực hiện công việc kiểm tra, kiểm soát nội bộ cũng là đối tượng của hoạt động kiểm tra, kiểm soát từ bên ngoài. Trong cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước, vai trò, vị trí của VKSND được thể hiện qua một số vấn đề sau:
Một là, khi thực hiện chức năng, nhiệm vụ, căn cứ vào quy định của Hiến pháp, Bộ luật Hình sự, Bộ luật Tố tụng hình sự, Bộ luật Dân sự, Bộ luật Tố tụng dân sự, Luật Tổ chức viện kiểm sát nhân dân, Luật Tố tụng hành chính và văn bản quy phạm pháp luật khác liên quan, VKSND bảo đảm việc áp dụng, chấp hành và tuân thủ pháp luật được thực hiện một cách nghiêm minh và thống nhất trong hoạt động tư pháp; kịp thời phát hiện vi phạm pháp luật, tội phạm trong hoạt động tư pháp, nhất là vi phạm của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng, người có quyền và nghĩa vụ liên quan... trong hoạt động tố tụng; trên cơ sở thực hiện quyền kiến nghị, yêu cầu chấm dứt, yêu cầu khắc phục, yêu cầu thay đổi, yêu cầu xử lý, kháng nghị... để bảo đảm cho pháp luật được thực hiện nghiêm chỉnh và thống nhất.
Hai là, thông qua hoạt động điều tra tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp, tội phạm về tham nhũng, chức vụ xảy ra trong hoạt động tư pháp của Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Cơ quan điều tra Viện kiểm sát quân sự Trung ương góp phần bảo đảm cho hoạt động kiểm sát tuân theo pháp luật trong hoạt động tư pháp cũng như việc thực hiện chức năng thực hành quyền công tố hoạt động hiệu lực và hiệu quả; đồng thời, hoạt động điều tra các tội xâm phạm hoạt động tư pháp, tội phạm về tham nhũng, chức vụ xảy ra trong hoạt động tư pháp mà người phạm tội là cán bộ, công chức thuộc cơ quan điều tra, tòa án nhân dân, VKSND, cơ quan thi hành án, người có thẩm quyền tiến hành hoạt động tư pháp là công cụ sắc bén để kiểm sát hoạt động tư pháp, góp phần bảo đảm xây dựng nền tư pháp nghiêm minh, liêm chính, đồng thời răn đe, cảnh tỉnh và phòng ngừa chung trong toàn hệ thống cơ quan tư pháp và củng cố lòng tin của nhân dân đối với hệ thống cơ quan tư pháp.
Ba là, viện kiểm sát có trách nhiệm phối hợp, đồng thời kiểm sát chặt chẽ, thường xuyên đối với hoạt động của cơ quan có thẩm quyền điều tra, tòa án, cơ quan thi hành án và cơ quan khác trong việc thực hiện hoạt động tư pháp, nhằm bảo đảm tính có căn cứ và tính hợp pháp trong việc chấp hành, áp dụng và tuân thủ pháp luật trong hoạt động tư pháp.
Thông qua hoạt động trên, trong cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước, VKSND góp phần bảo đảm hoạt động của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân được thực hiện đúng quy định của pháp luật; bảo đảm quyền con người và các quyền, lợi ích hợp pháp khác của người có liên quan được tôn trọng và bảo vệ; bản án, quyết định của tòa án đã có hiệu lực pháp luật phải được thi hành nghiêm chỉnh và mọi hành vi vi xâm phạm hoạt động tư pháp phải được phát hiện, xử lý kịp thời, nghiêm minh.
Đại diện viện kiểm sát tại phiên tòa _Ảnh: TTXVN
Thực tiễn thực hiện vai trò của viện kiểm sát nhân dân trong cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước
Trong hoạt động thực hành quyền công tố: đã phê chuẩn hoặc không phê chuẩn việc khởi tố bị can, việc áp dụng biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế và biện pháp khác hạn chế quyền con người, quyền công dân của cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra; phê chuẩn hoặc hủy bỏ quyết định của cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra; quyết định việc khởi tố, chuyển vụ án, gia hạn thời hạn, áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế; trực tiếp giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố hoặc trực tiếp tiến hành một số hoạt động điều tra trong các trường hợp do Bộ luật Tố tụng hình sự quy định; quyết định trả hồ sơ cho cơ quan điều tra để điều tra bổ sung, tạm đình chỉ, đình chỉ hoặc truy tố bị can; thực hiện việc buộc tội tại phiên tòa (công bố cáo trạng, xét hỏi, luận tội, tranh luận, phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án); kháng nghị phúc thẩm bản án, quyết định của tòa án trong trường hợp phát hiện oan sai, bỏ lọt tội phạm và người phạm tội...; qua đó, bảo đảm việc giải quyết vụ án hình sự đúng pháp luật.
Với trách nhiệm được phân công, VKSND đã thực hiện quyết liệt biện pháp nhằm tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra, gắn công tố với hoạt động điều tra, bảo đảm hoạt động điều tra đúng pháp luật, yêu cầu kiểm sát viên phải nắm chắc, thực hiện đúng, đủ quy định của pháp luật, nhất là quy định về trách nhiệm của VKSND; kiên quyết bảo vệ cái đúng, đấu tranh với hành vi vi phạm pháp luật, bảo vệ quyền con người, bảo vệ công lý. Chủ động phối hợp ngay từ đầu với cơ quan có thẩm quyền điều tra để yêu cầu điều tra, kiểm tra, xác minh đúng và kịp thời vụ án, vụ việc; tăng cường hoạt động hỏi cung, phúc cung và các hoạt động điều tra theo thẩm quyền để làm rõ nội dung vụ án; tăng cường trách nhiệm của người đứng đầu trong hoạt động thực hành quyền công tố; nâng cao chất lượng, hiệu quả yêu cầu điều tra; thận trọng, khách quan khi quyết định truy tố, bảo đảm có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật; thực hiện biện pháp để nâng cao chất lượng tranh tụng của kiểm sát viên tại phiên tòa. Thông qua thực hành quyền công tố, đã góp phần hạn chế trường hợp khởi tố oan và bỏ lọt tội phạm; bảo đảm việc bắt, tạm giữ, tạm giam có đầy đủ căn cứ, đúng pháp luật, hạn chế việc lạm dụng biện pháp tạm giam; chất lượng điều tra, truy tố được nâng lên, vi phạm tố tụng và trường hợp oan, sai giảm dần, kết quả công tác đạt và vượt chỉ tiêu theo Nghị quyết số 96/2019/QH14, ngày 27-11-2019, của Quốc hội, “Về công tác phòng, chống tội phạm và vi phạm pháp luật, công tác của viện kiểm sát nhân dân, của tòa án và công tác thi hành án”.
Đặc biệt, trong hoạt động trực tiếp điều tra vụ án về tội xâm phạm hoạt động tư pháp, tham nhũng, chức vụ xảy ra trong hoạt động tư pháp, ngành kiểm sát nhân dân luôn bảo đảm tỷ lệ giải quyết nguồn tin, điều tra khám phá các loại tội phạm, thu hồi tài sản trong vụ án về tham nhũng đều vượt chỉ tiêu của Quốc hội, đã ban hành nhiều kiến nghị yêu cầu cơ quan xử lý cán bộ vi phạm và áp dụng biện pháp phòng ngừa tội phạm. Kiến nghị đều được tiếp thu, thực hiện, góp phần chấn chỉnh hoạt động của cơ quan tư pháp bảo đảm thực thi đúng pháp luật.
Trong kiểm sát hoạt động tư pháp: đã thực hiện tốt quyền kháng nghị, kiến nghị, yêu cầu khắc phục vi phạm trong hoạt động khởi tố, điều tra, xét xử, thi hành án, bảo đảm hoạt động tư pháp tuân thủ quy định của pháp luật, kịp thời nghiêm minh, qua đó góp phần bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân. Đồng thời, thông qua giải quyết vụ án, vụ việc, VKSND đã phát hiện nhiều vi phạm, hạn chế trong việc quản lý đất đai, tài sản công, hoạt động ngân hàng… và kiến nghị với cơ quan có thẩm quyền khắc phục sơ hở, thiếu sót trong quản lý nhà nước đối với lĩnh vực này. Số lượng, chất lượng kháng nghị các loại án cơ bản đáp ứng yêu cầu Quốc hội; hiệu lực bản kiến nghị được nâng lên và vượt chỉ tiêu theo Nghị quyết 96/2019/QH14 của Quốc hội. Tỷ lệ giải quyết đơn đề nghị kháng nghị giám đốc thẩm tăng dần theo từng năm. Hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, tạm giữ, tạm giam, thi hành án ngày càng tuân thủ chặt chẽ theo quy định của pháp luật, bảo đảm quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân theo quy định của Hiến pháp, pháp luật.
Yêu cầu của Đảng với việc tăng cường hiệu quả tổ chức quyền lực theo cơ chế phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp
Từ Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011) và các Văn kiện Đại hội lần thứ XI, XII, XIII của Đảng tiếp tục khẳng định và quán triệt nguyên tắc tổ chức quyền lực nhà nước; đồng thời, thể chế hóa và quy định tại khoản 3 Điều 2 Hiến pháp năm 2013. Đại hội XIII của Đảng đề ra phương hướng và Ban Chấp hành Trung ương đã ban hành Nghị quyết số 27-NQ/TW, trong đó có nội dung trọng tâm là hoàn thiện pháp luật và cải cách tư pháp. Đảng ta khẳng định tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng lãnh đạo là nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới hệ thống chính trị; theo đó, cần xác định rõ hơn vai trò, vị trí, chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp; bảo đảm quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công rành mạch, phối hợp chặt chẽ và tăng cường kiểm soát quyền lực nhà nước. Tăng cường kiểm tra, giám sát, kiểm soát việc thực hiện quyền lực nhà nước nói chung và quyền tư pháp nói riêng là một nhu cầu tất yếu khách quan. Thực tiễn cho thấy, cơ chế kiểm sát hoạt động tư pháp của VKSND là sự ủy quyền của Quốc hội, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất đại diện cho ý chí của nhân dân thực hiện giám sát quyền lực nhà nước chuyên trách hiệu quả, góp phần bảo vệ pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân.
Cùng với đó, Đảng và Nhà nước đều chủ trương nhất quán và đưa ra mục tiêu quan trọng là công nhận, tôn trọng, bảo đảm và bảo vệ quyền con người, quyền công dân. Trong hoạt động tư pháp, Nghị quyết số 49-NQ/TW, ngày 2-6-2005, của Bộ Chính trị, “Về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020” cũng nhấn mạnh chủ trương tôn trọng và bảo vệ quyền con người. Đại hội XIII của Đảng xác định rõ mục tiêu: “Tiếp tục xây dựng nền tư pháp Việt Nam chuyên nghiệp, hiện đại, công bằng, nghiêm minh, liêm chính, phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Hoạt động tư pháp phải có trọng trách bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của tổ chức, cá nhân”(3). Nghị quyết số 27-NQ/TW đặt ra nhiệm vụ và giao cho Viện kiểm sát nhân dân tối cao nghiên cứu đề xuất: “Hoàn thiện chính sách, pháp luật liên quan đến tư pháp, bảo đảm tôn trọng và bảo vệ quyền con người, quyền công dân... Tổng kết thực tiễn, nghiên cứu hoàn thiện quy định pháp luật về khởi kiện vụ án dân sự trong trường hợp chủ thể các quyền dân sự là nhóm dễ bị tổn thương hoặc trường hợp liên quan đến lợi ích công nhưng không có người đứng ra khởi kiện”.
Đặc biệt, trong thời gian gần đây, nhằm đáp ứng tốt yêu cầu và định hướng chiến lược phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, Đảng, Nhà nước và đồng chí Tổng Bí thư Tô Lâm tiếp tục quán triệt và đề ra nhiều yêu cầu về chủ trương, chính sách mới liên quan đến công tác xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật; đổi mới tư duy lập pháp, tăng cường kiểm soát quyền lực, phòng, chống tham nhũng trong xây dựng pháp luật, trong hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án… Theo đó, “Pháp luật trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa cần phải liên tục được hoàn thiện để thể chế hóa đường lối, chính sách của Đảng, phát huy dân chủ, vì con người, công nhận, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền công dân”(4), “Đổi mới mạnh mẽ công tác xây dựng, hoàn thiện và thực thi pháp luật, coi đây là yếu tố quan trọng để phòng, chống lãng phí…”(5), đồng thời phải “thường xuyên đánh giá hiệu quả, chất lượng chính sách sau ban hành để kịp thời điều chỉnh bất cập, mâu thuẫn, giảm thiểu thất thoát, lãng phí các nguồn lực; chủ động phát hiện và tháo gỡ nhanh nhất những “điểm nghẽn” có nguyên nhân từ các quy định của pháp luật”(6).
Mặt khác, hoạt động tư pháp có trọng trách bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của tổ chức, cá nhân nên cần phải tiếp tục có những đổi mới mạnh mẽ về tổ chức để nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả hoạt động và uy tín của tòa án nhân dân, viện kiểm sát nhân dân, cơ quan điều tra, cơ quan thi hành án và các cơ quan tổ chức tham gia vào quá trình tố tụng tư pháp(7); đặc biệt là bộ máy các cơ quan nhà nước nói chung, cơ quan tư pháp nói riêng, trong đó có VKSND phải “tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả” để thực hiện tốt hơn chức năng, nhiệm vụ và phát huy vai trò, trách nhiệm của mình trong hoạt động tư pháp, kiểm soát hoạt động tư pháp bảo đảm hoạt động tư pháp được minh bạch, công bằng, nghiêm minh và là cơ chế hữu hiệu để phát hiện đầy đủ và xử lý kịp thời mọi hành vi phạm tội, phòng ngừa, ngăn chặn tội phạm, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội.
Cán bộ viện kiểm sát nhân dân phối hợp với lực lượng công an nhân dân làm tốt công tác phòng ngừa, đấu tranh phòng, chống tội phạm, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội _Nguồn: baovephapluat.vn
Một số giải pháp nhằm tăng cường vai trò của viện kiểm sát nhân dân trong cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước
Việc tiếp tục ghi nhận và tăng cường vai trò của VKSND trong cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước là một yêu cầu cần thực hiện, các giải pháp cụ thể như sau:
Thứ nhất, thực tiễn xây dựng pháp luật, trong đó có xây dựng pháp luật liên quan đến hoạt động tư pháp thời gian qua cho thấy, một trong những nguyên nhân quan trọng làm ảnh hưởng đến tiến độ, chất lượng xây dựng pháp luật là do vướng mắc, bất cập liên quan đến nhận thức lý luận về quyền tư pháp, hoạt động tư pháp, vị trí của cơ quan tư pháp..., dẫn đến khó khăn trong việc cụ thể hóa quy định của Hiến pháp, việc xác định thẩm quyền, trách nhiệm của VKSND và cơ quan liên quan trong quy định của pháp luật. Trong giai đoạn đẩy mạnh xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, việc nhận thức đúng đắn và thống nhất bản chất, tầm quan trọng của chức năng của VKSND nói chung, chức năng, nhiệm vụ kiểm sát hoạt động tư pháp nói riêng ngày càng trở thành vấn đề quan trọng và có ý nghĩa sâu sắc về cả phương diện lý luận và thực tiễn. Bởi lẽ, có nhận thức đúng đắn, đầy đủ, thống nhất về bản chất, ý nghĩa của kiểm sát hoạt động tư pháp mới có thể tham mưu, đề xuất chính xác với Đảng, Nhà nước trong việc hoàn thiện chính sách, pháp luật, đào tạo cán bộ, đầu tư điều kiện bảo đảm để tổ chức triển khai thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của viện kiểm sát, bảo đảm đạt được hiệu quả và thực chất.
Để thống nhất nhận thức lý luận về vị trí, vai trò của VKSND trong tổ chức bộ máy nhà nước, hệ thống chính trị của nước ta, cũng như bảo đảm cho VKSND thực hiện tốt nhiệm vụ trên thực tế, Ban Chỉ đạo cải cách tư pháp trung ương cần tổ chức việc nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn để làm rõ các vấn đề về quyền tư pháp, hoạt động tư pháp, cơ chế phân công, phối hợp và kiểm soát việc thực hiện giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp ở nước ta trong giai đoạn mới, làm cơ sở cho việc hoàn thiện chính sách, pháp luật về tư pháp, về vị trí, chức năng của cơ quan tư pháp nói chung và VKSND nói riêng, bảo đảm chuẩn bị tốt nội dung liên quan đến vấn đề về tư pháp và VKSND trong Văn kiện, Nghị quyết Đại hội XIV của Đảng.
Nghiên cứu, đưa vào cơ cấu người đứng đầu viện kiểm sát tham gia cấp ủy các cấp, có vị trí tương xứng với vị trí của người đứng đầu tòa án, cơ quan điều tra là cơ quan chịu sự kiểm soát quyền lực từ viện kiểm sát để bảo đảm viện kiểm sát có đủ điều kiện triển khai thực hiện tốt trách nhiệm, thẩm quyền, tham mưu tốt cho cấp ủy các cấp, góp phần tăng cường hiệu quả sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác của viện kiểm sát.
Thứ hai, có thể thấy, vai trò, trách nhiệm của VKSND được thể hiện rõ trong lĩnh vực thực hành quyền công tố, kiểm sát việc giải quyết vụ án hình sự liên quan đến lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng. Tuy nhiên, trong lĩnh vực phi hình sự, chưa có cơ chế hữu hiệu để VKSND phát huy hiệu quả vai trò “bảo vệ pháp luật, lợi ích nhà nước, lợi ích công cộng, lợi ích của nhóm dễ bị tổn thương”, nhất là từ khi Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 ra đời đã bỏ quy định về thẩm quyền khởi tố vụ án dân sự của VKSND; việc bảo vệ quyền dân sự của chủ thể thuộc nhóm dễ bị tổn thương và lợi ích công chủ yếu được thực hiện thông qua quyền khởi kiện của cơ quan, tổ chức trong phạm vi thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình. Tuy nhiên, thực tiễn có trường hợp cơ quan, tổ chức không thực hiện đầy đủ chức trách, nhiệm vụ, như quy hoạch treo,... dẫn đến gây tổn hại hoặc có nguy cơ gây tổn hại đến lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng(8); trong một số lĩnh vực quản lý Nhà nước, như môi trường, đất đai, an toàn thực phẩm, kinh tế, tài chính, y tế, giáo dục,.... là vấn đề nóng, ảnh hưởng nhiều đến đời sống kinh tế - xã hội chưa được phát hiện sớm để xử lý, ngăn ngừa, giảm bớt hậu quả, thiệt hại xảy ra; trong khi đó, người dân và cơ quan, tổ chức được giao thẩm quyền khởi kiện, nhưng do không có lợi ích liên quan trực tiếp nên đã không quan tâm khởi kiện, dẫn đến hành vi vi phạm xâm hại đến lợi ích của nhóm người dễ bị tổn thương và lợi ích công nên không được bảo vệ kịp thời; dẫn đến gây thất thoát, lãng phí, thiệt hại cho Nhà nước, quyền và lợi ích cho nhóm dễ bị tổn thương chưa được bảo vệ triệt để, hiệu quả. Do đó, cần nghiên cứu bổ sung cơ chế khởi kiện của VKSND để bảo vệ quyền dân sự của chủ thể thuộc nhóm dễ bị tổn thương và bảo vệ lợi ích công trong trường hợp không có người đứng ra khởi kiện theo hướng: 1- VKSND qua giải quyết các vụ án, vụ việc nếu phát hiện các trường hợp sau khi giải quyết trách nhiệm hình sự mà phần dân sự chưa được giải quyết hoặc trường hợp không đến mức phải xử lý hình sự, nhưng phải khắc phục hậu quả thiệt hại để bảo vệ lợi ích cho Nhà nước, lợi ích công cộng hoặc lợi ích của nhóm dễ bị tổn thương mà không có chủ thể nào đứng ra khởi kiện thì viện kiểm sát thực hiện trách nhiệm khởi kiện. 2- VKSND qua việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình mà phát hiện có sự việc xâm phạm quyền dân sự của chủ thể thuộc nhóm dễ bị tổn thương và lợi ích công thì có quyền kiến nghị, thông báo đến các cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyền, trách nhiệm khởi kiện theo Điều 187 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 để cơ quan, tổ chức, cá nhân đó khởi kiện hoặc áp dụng các biện pháp xử lý, khắc phục khác. Trong thời hạn quy định, cơ quan, tổ chức, cá nhân này phải có trách nhiệm thực hiện đề nghị của viện kiểm sát về việc khởi kiện hoặc không khởi kiện và trả lời cho viện kiểm sát biết, trường hợp không khởi kiện phải nêu rõ lý do. Nếu cơ quan, tổ chức, cá nhân này không thực hiện đề nghị và trả lời viện kiểm sát trong thời hạn xác định, không khởi kiện, không áp dụng các biện pháp xử lý, khắc phục khác mà không có lý do chính đáng thì viện kiểm sát có quyền khởi kiện vụ việc, vụ án dân sự ra trước tòa án nhân dân để yêu cầu bảo vệ lợi ích công và nhóm chủ thể nêu trên. Khi khởi kiện, viện kiểm sát được áp dụng biện pháp thu thập, xác minh tài liệu, chứng cứ, nhưng không hòa giải và không phải nộp án phí. Trường hợp cơ quan, tổ chức, cá nhân khởi kiện thì viện kiểm sát hỗ trợ cho chủ thể khởi kiện.
Thứ ba, quá trình thực hiện nhiệm vụ, VKSND các cấp đã phát hiện được nhiều vi phạm xâm phạm lợi ích công cộng, lợi ích nhà nước của cả cơ quan, cá nhân có thẩm quyền và cơ quan, tổ chức, cá nhân liên quan, qua đó đã ban hành nhiều yêu cầu, kiến nghị, kháng nghị nhằm khắc phục, phòng ngừa vi phạm. Tuy nhiên, việc yêu cầu, kiến nghị, kháng nghị chỉ thực sự hiệu quả trong quá trình giải quyết các vụ án hình sự, đối với việc giải quyết vụ án hành chính thì vai trò của VKSND trong việc bảo vệ lợi ích công cộng, lợi ích nhà nước vẫn còn hạn chế, mang tính bị động, trong đó một phần là do chưa có cơ chế tác động phù hợp để bảo vệ lợi ích chung, đối tượng luôn có khả năng bị xâm phạm.
Trước tình hình xâm phạm lợi ích công cộng, lợi ích nhà nước ngày càng tăng và diễn biến phức tạp, để đáp ứng yêu cầu tăng cường hơn nữa việc bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của tổ chức, cá nhân, thời gian tới cần có những quy định để giúp cho hoạt động VKSND chuyển sang hướng linh hoạt hơn, theo đó, VKSND khi tiếp nhận các thông tin, tài liệu vi phạm thông qua hoạt động của VKSND hoặc thông qua việc tiếp nhận, kiểm sát việc giải quyết tin báo, tố giác và kiến nghị, thông tin về vụ việc, hành vi vi phạm,… có thể chủ động phát động hoạt động tố tụng, như thu thập thông tin, tài liệu, lập hồ sơ, yêu cầu kiến nghị khắc phục, phòng ngừa đối với cơ quan/người có thẩm quyền vi phạm và đưa vụ việc ra xem xét, xét xử trước tòa án trong trường hợp yêu cầu, kiến nghị khắc phục, phòng ngừa không được thực hiện, thực hiện không đầy đủ để xử lý một cách triệt để hành vi vi phạm.
Thứ tư, nhằm bảo đảm chống oan, sai, chống bỏ lọt tội phạm mà trước hết là chống làm oan người vô tội, cần tăng cường kiểm soát quyền lực trong thực hành quyền công tố; cần nghiên cứu bổ sung quy định về giới hạn truy tố, chuyển từ cơ chế “truy tố bắt buộc” sang cơ chế “truy tố có điều kiện”. Trên cơ sở xem xét, đánh giá, cân nhắc thận trọng lợi ích (trước hết là vì lợi ích công) để quyết định việc truy tố. Đây là nội dung quan trọng nhằm tránh hình sự hóa quan hệ dân sự, kinh tế, hành chính hoặc ngược lại và tạo hành lang pháp lý cho sự đổi mới, phát triển và hội nhập quốc tế. Đây là cơ chế tốt để bảo đảm chống oan, sai, chống bỏ lọt tội phạm và bảo vệ quyền con người, quyền công dân.
Thứ năm, nghiên cứu quy định về biện pháp nhằm rút ngắn thủ tục tố tụng trong giai đoạn truy tố bằng việc xây dựng cơ chế nhận tội giữa kiểm sát viên và nghi can được thực hiện đối với vụ án ít nghiêm trọng, bằng chứng và tội danh rõ ràng. Bị can có thể thỏa thuận với kiểm sát viên về nhận tội để được giảm hình phạt. Kết quả của quá trình nhận tội là một văn bản thỏa thuận ghi rõ căn cứ pháp luật, người bị buộc tội là ai, nhận tội gì, hậu quả ra sao, mức hình phạt tối đa,…; đồng thời, hai bên (bị hại và bị can) sẽ thỏa thuận về mức bồi thường sau khi bị can đã nhận tội ./.
--------------
(1) Điều 2 Hiến pháp năm 2013
(2) Điều 107 và Điều 119 Hiến pháp năm 2013
(3) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. I, tr. 177 - 178
(4) Tô Lâm: “Một số nội dung cơ bản về kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc; những định hướng chiến lược đưa đất nước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc”, Tạp chí Cộng sản điện tử, ngày 1-11-2024, https://www.tapchicongsan.org.vn/media-story/-/asset_publisher/V8hhp4dK31Gf/content/ky-nguyen-moi-ky-nguyen-vuon-minh-cua-dan-toc-ky-nguyen-phat-trien-giau-manh-duoi-su-lanh-dao-cam-quyen-cua-dang-cong-san-xay-dung-thanh-cong-nuoc-vie
(5) Bài viết của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm về chống lãng phí, Cổng thông tin điện tử Quốc hội Việt Nam, ngày 13-10-2024, https://quochoi.vn/tintuc/pages/su-kien-noi-bat.aspx?ItemID=90047
(6) Tô Lâm: “Một số nội dung cơ bản về kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc; những định hướng chiến lược đưa đất nước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc”, Tạp chí Cộng sản điện tử, ngày 1-11-2024, https://www.tapchicongsan.org.vn/media-story/-/asset_publisher/V8hhp4dK31Gf/content/ky-nguyen-moi-ky-nguyen-vuon-minh-cua-dan-toc-ky-nguyen-phat-trien-giau-manh-duoi-su-lanh-dao-cam-quyen-cua-dang-cong-san-xay-dung-thanh-cong-nuoc-vie
(7) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. I, tr. 174 – 178
(8) Hà An: “Nhiều đơn vị thuộc Bộ Giao thông Vận tải cho thuê tài sản công sai quy định”, Công an nhân dân online, ngày 4-10-2024, https://cand.com.vn/su-kien-binh-luan-thoi-su/nhieu-don-vi-thuoc-bo-giao-thong-van-tai-cho-thue-tai-san-cong-sai-quy-dinh-i746159; Xuân Long: “Formosa đứng đầu các vụ gây ô nhiễm năm 2016”, Tuổi trẻ online, ngày 13-7-2017, https://tuoitre.vn/formosa-dung-dau-cac-vu-gay-o-nhiem-nam-2016-1351267.htm