Vấn đề “đối tác” và “đối tượng” trong Văn kiện Đại hội XIII của Đảng: Từ nhận thức đến thực tế

GS, TS. PHẠM QUANG MINH - TS. NGUYỄN HỒNG HẢI
Nguyên Hiệu trưởng Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội - Đại học Queensland, Ô-xtrây-li-a

11:16, ngày 24-06-2021

TCCS - Chính sách đối ngoại của Việt Nam được thông qua tại Đại hội XIII của Đảng mang tính toàn diện và bao trùm, phản ánh nhận thức và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam phù hợp với thực tiễn phát triển của thời đại, với cục diện thế giới, khu vực và môi trường an ninh - đối ngoại, trong đó có việc xác định rõ “đối tác” và “đối tượng” với sự kế thừa và tiếp nối chính sách đối ngoại nhất quán mà Việt Nam tiến hành từ khi bắt đầu đổi mới đến nay.

Quá trình phát triển nhận thức của Đảng về “đối tác” và “đối tượng” trong quan hệ đối ngoại từ khi thực hiện công cuộc đổi mới đến nay

Sự phát triển nhận thức và quan điểm của Đảng về “đối tác” và “đối tượng” trong chính sách đối ngoại gắn liền với công cuộc đổi mới toàn diện đất nước được khởi xướng từ Đại hội VI của Đảng (tháng 12-1986). Trong định hướng đối ngoại được Đại hội VI xác định, ngoài việc khẳng định tăng cường quan hệ truyền thống đặc biệt giữa ba nước Đông Dương, quan hệ hữu nghị và hợp tác toàn diện với các nước trong khối xã hội chủ nghĩa, Đảng ta còn bày tỏ mong muốn sẵn sàng hợp tác với các nước có chế độ chính trị - xã hội khác nhau. Quan điểm này phát triển dựa trên nhận thức của Đảng ta, đó là “ra sức kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại” nhằm tranh thủ mọi nguồn lực để phục vụ sự nghiệp phát triển của đất nước. Tuy nhiên, bước chuyển thực sự mang tính chiến lược về nhận thức và quan điểm đối ngoại của Đảng được thể hiện qua Nghị quyết số 13/NQ-TW, ngày 20-5-1988, của Bộ Chính trị, “Về nhiệm vụ và chính sách đối ngoại trong tình hình mới”(1). Nghị quyết chỉ ra chiến lược đối ngoại của Việt Nam là “thêm bạn, bớt thù”, vừa hợp tác, vừa đấu tranh, cùng tồn tại hòa bình, “mở rộng quan hệ và đa dạng hóa quan hệ hợp tác quốc tế” với mục tiêu giữ vững môi trường hòa bình, thúc đẩy hội nhập quốc tế, phá thế bao vây, cấm vận, thu hút sự ủng hộ của cộng đồng quốc tế đối với công cuộc đổi mới của đất nước. Nghị quyết số 13/NQ-TW được xem như bước ngoặt về tư duy đối ngoại có tầm chiến lược và là nền tảng để Đảng ta phát triển và mở rộng hơn nữa chính sách đối ngoại trong giai đoạn tiếp theo.

Đến Đại hội VII (tháng 6-1991), Đảng ta nêu rõ “chủ trương hợp tác bình đẳng và cùng có lợi với tất cả các nước, không phân biệt chế độ chính trị - xã hội khác nhau trên cơ sở các nguyên tắc cùng tồn tại hòa bình”(2). Với chính sách đối ngoại rộng mở, Đảng ta khẳng định: “Việt Nam muốn là bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển”(3). Ở thời điểm đó, với uy tín và vị thế của đất nước, có thể hiểu Việt Nam “muốn là bạn với tất cả các nước” là chủ động thúc đẩy quan hệ và mong muốn trở thành “đối tác” của các nước. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được thông qua tại Đại hội VII của Đảng cũng xác định phương hướng đối ngoại của Việt Nam: “Thực hiện chính sách đối ngoại hòa bình, hợp tác và hữu nghị với tất cả các nước”. Theo đó, kết quả đạt được thời kỳ này là Việt Nam đã phá được thế bị bao vây, cấm vận; triển khai tích cực và năng động đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa; khôi phục, mở rộng và thiết lập quan hệ ngoại giao với tất cả các nước lớn, trong đó bước ngoặt quan trọng là việc bình thường hóa quan hệ với Mỹ, ký kết Hiệp định khung với EU và gia nhập Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) trong cùng năm 1995.

Lực lượng tiêu binh thực hiện nghi thức thượng cờ nhân kỷ niệm 53 năm Ngày thành lập Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á - ASEAN (8-8-1967 - 8-8-2020) và 25 năm Ngày Việt Nam trở thành thành viên chính thức của ASEAN (28-7-1995 - 28-7-2020) _Ảnh: TTXVN

Kế thừa đường lối đối ngoại và phát huy thành quả tích cực đạt được trên các lĩnh vực sau 10 năm đổi mới, lần đầu tiên Báo cáo chính trị tại Đại hội VIII của Đảng (năm 1996) khẳng định: “tiếp tục thực hiện chính sách đối ngoại độc lập tự chủ, rộng mở, đa phương hóa và đa dạng hóa với tinh thần Việt Nam muốn là bạn của tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển... Hợp tác nhiều mặt, song phương và đa phương với các nước, các tổ chức quốc tế và khu vực trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng, cùng có lợi, thông qua thương lượng để tìm những giải pháp phù hợp giải quyết các vấn đề tồn tại và tranh chấp, bảo đảm hòa bình, ổn định, an ninh, hợp tác và phát triển”(4).

Bước sang thế kỷ XXI, sau 15 năm đổi mới, thế và lực của Việt Nam được tăng cường, uy tín trên trường quốc tế ngày một nâng cao. Từ đó, Đại hội IX của Đảng (tháng 4-2001) đã điều chỉnh phương châm “Việt Nam muốn là bạn của tất cả các nước trong cộng đồng quốc tế” thành “Việt Nam sẵn sàng là bạn” và lần đầu tiên nhấn mạnh thêm “là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển”(5). Cụm từ “Việt Nam sẵn sàng là bạn” có thể được diễn giải với những thành tựu đạt được, vị thế quốc tế của Việt Nam đã được nâng cao sau 15 năm đổi mới, cho phép Việt Nam không chỉ chủ động mà còn đón nhận sự chủ động từ các “đối tác” muốn thúc đẩy và phát triển quan hệ với một nước Việt Nam đổi mới. Nói cách khác, quan hệ “đối tác” trong hoạt động đối ngoại của Việt Nam đã có sự thúc đẩy hai chiều. Việc bổ sung cụm từ “là đối tác tin cậy” cho thấy, Việt Nam không chỉ mong muốn mở rộng quan hệ, mà còn nâng cấp quan hệ lên tầm cao mới, đồng thời đặt tiền đề cho việc xác định đối tác trong quan hệ đối ngoại của Việt Nam.

Trước Đại hội IX của Đảng, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 07 NQ/TW, ngày 27-11-2001, “Về hội nhập kinh tế quốc tế”, trong đó đề ra phương châm chỉ đạo trong hợp tác quốc tế nhằm tranh thủ tối đa nguồn lực bên ngoài để phục vụ phát triển kinh tế đất nước. Theo đó, Nghị quyết chỉ ra: “hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình vừa hợp tác, vừa đấu tranh, vừa có nhiều cơ hội, vừa không ít thách thức, do đó cần tỉnh táo, khôn khéo và linh hoạt trong việc xử lý tính hai mặt của hội nhập tùy theo đối tượng, vấn đề, trường hợp, thời điểm cụ thể”; đồng thời, nhấn mạnh việc “kết hợp chặt chẽ quá trình hội nhập kinh tế quốc tế với yêu cầu giữ vững an ninh, quốc phòng..., cảnh giác với những mưu toan thông qua hội nhập để thực hiện ý đồ “diễn biến hòa bình” đối với nước ta”(6).

Đến giữa nhiệm kỳ khóa IX, Hội nghị Trung ương 8 (tháng 7-2003) thông qua Nghị quyết “Về chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới” (7). Điểm nổi bật và có ý nghĩa của Nghị quyết này đó là lần đầu tiên một văn bản chính thức của Đảng đưa ra nguyên tắc xác định “đối tác” và “đối tượng” trong quan hệ quốc tế của Việt Nam. Việc đưa ra nguyên tắc này xuất phát từ tình hình thực tiễn trong quan hệ quốc tế ngày một mở rộng và đa dạng của Việt Nam; đồng thời, giúp có cái nhìn biện chứng giữa hợp tác và đấu tranh, giữa lợi ích kinh tế và giữ vững ổn định chính trị, bảo đảm an ninh quốc gia, giữa lợi ích quốc gia - dân tộc và nghĩa vụ khi hội nhập quốc tế. Có thể nói, việc xác định và chỉ rõ phạm vi “đối tượng” và “đối tác” trong Nghị quyết Trung ương 8 khóa IX là sự phát triển nhận thức, tư duy nhạy bén và biện chứng có tầm chiến lược của Đảng, phù hợp với xu thế diễn biến nhanh chóng trong quan hệ quốc tế. Điều này giúp Việt Nam tránh được sự mơ hồ và thoát khỏi tư duy cực đoan về “bạn - thù” trong thời kỳ Chiến tranh lạnh.

Các Đại hội X (tháng 4-2006), Đại hội XI (tháng 1-2011) và Đại hội XII (tháng 1-2016) của Đảng tiếp tục khẳng định chính sách đối ngoại nhất quán của Việt Nam là “đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ”, nhấn mạnh cần “chủ động và tích cực” hội nhập quốc tế, nhưng trên hết là vì lợi ích quốc gia  - dân tộc. Đặc biệt, kế thừa Nghị quyết Trung ương 8 khóa IX, Hội nghị Trung ương 8 khóa XI đã thông qua Nghị quyết số 28-NQ/TW, ngày 25-10-2013, “Về chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới” (8). Nghị quyết số 28-NQ/TW đưa ra quan điểm về “đối tác” và “đối tượng”, theo đó những ai tôn trọng độc lập chủ quyền, thiết lập và mở rộng quan hệ hữu nghị và hợp tác bình đẳng cùng có lợi với Việt Nam đều là đối tác; bất kể lực lượng nào có âm mưu và hành động chống phá mục tiêu cách mạng Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đều là đối tượng đấu tranh của Việt Nam. Có thể nói, việc xác định “đối tác” và “đối tượng” này là cơ sở để xử lý đúng đắn trong hoạt động đối ngoại, thể hiện rõ mối quan hệ hữu cơ và biện chứng của hai nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Việc xác định “đối tác” như vậy là phù hợp và nhất quán với quan điểm của Đảng ngay từ khi tiến hành công cuộc đổi mới, đó là: Việt Nam muốn/sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế. Trong khi đó, theo diễn biến của tình hình thế giới và quá trình thực hiện sự nghiệp cách mạng, thực tiễn đã chỉ ra “đối tượng” ở đây bao gồm không chỉ các thế lực có âm mưu, hành động gây chiến tranh, bạo loạn lật đổ chế độ và Nhà nước xã hội chủ nghĩa, mà còn là những lực lượng xâm phạm độc lập, chủ quyền, lợi ích quốc gia, dân tộc bằng phương thức vũ trang và phi vũ trang, cả từ bên trong và bên ngoài đất nước. Tuy nhiên, điều quan trọng là không được cứng nhắc trong tư duy, chỉ nhìn thấy một mặt trong “đối tác” hay “đối tượng”. Điều này dễ dẫn tới sa vào thái độ cực đoan. Với nhận thức đó, Nghị quyết cho rằng “trong tình hình diễn biến nhanh chóng và phức tạp hiện nay, cần có cách nhìn biện chứng: Trong mỗi đối tượng vẫn có thể có mặt cần tranh thủ, hợp tác; trong mỗi đối tác có thể có mặt mâu thuẫn với lợi ích của ta cần phải đấu tranh”. Sự phát triển nhận thức và quan điểm của Đảng về “đối tác” và “đối tượng”, phương thức áp dụng là biện chứng và phù hợp với thực tiễn. Từ quan điểm của Nghị quyết số 28-NQ/TW, Đại hội XII của Đảng nhấn mạnh hoạt động đối ngoại của Việt Nam bao gồm hai mặt “hợp tác và đấu tranh”.

Như vậy, có thể tóm lược một cách ngắn gọn rằng, “đối tác” được hiểu là “đối tác hợp tác”, còn “đối tượng” là “đối tượng đấu tranh”. Và dù là “đối tác hợp tác” hay “đối tượng đấu tranh” thì mục tiêu cuối cùng và tối thượng là vì “lợi ích quốc gia - dân tộc”, “giữ vững ổn định an ninh quốc gia, trật tự xã hội, bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa”.

Ủy viên Bộ Chính trị, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc chứng kiến trao đổi biên bản ký Hiệp định Thương mại tự do và Hiệp định Bảo hộ đầu tư giữa Việt Nam và Liên minh châu Âu, ngày 30-6-2019 _Ảnh: TTXVN

 “Đối tác” và “đối tượng” trong Văn kiện Đại hội XIII của Đảng

Sau khi phân tích tình hình thế giới và khu vực, khẳng định Việt Nam kiên định đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ đối ngoại, Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy và là thành viên tích cực, có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế, Báo cáo chính trị tại Đại hội XIII của Đảng đưa ra định hướng hoạt động đối ngoại, đó là: “Đẩy mạnh đối ngoại song phương và nâng tầm đối ngoại đa phương... Coi trọng phát triển quan hệ hợp tác, hữu nghị, truyền thống với các nước láng giềng... Đẩy mạnh và làm sâu sắc hơn quan hệ hợp tác song phương với các đối tác, đặc biệt là các đối tác chiến lược, đối tác toàn diện và đối tác quan trọng khác... Kiên quyết, kiên trì đấu tranh, làm thất bại mọi âm mưu, hành động can thiệp của các thế lực thù địch vào công việc nội bộ, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, an ninh quốc gia và ổn định chính trị đất nước”(9).

Nhìn một cách tổng quát, chính sách đối ngoại được Đại hội XIII của Đảng thông qua là sự kế thừa và tiếp nối chính sách đối ngoại từ khi thực hiện công cuộc đổi mới đến nay, nhất là chính sách đối ngoại được thông qua tại Đại hội XII của Đảng (năm 2016), với chủ trương nhất quán là “đa dạng hóa và đa phương hóa trong quan hệ đối ngoại”, “Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế”(10).

Về “đối tác”, có thể dễ dàng nhận thấy ngoài hai nước Lào và Cam-pu-chia có quan hệ “láng giềng đặc biệt”, cho đến nay, Việt Nam đã thiết lập quan hệ đối tác chiến lược với 17 nước và đối tác toàn diện với 13 nước. Trong số các đối tác, Việt Nam cũng đặt thứ tự ưu tiên với các nước láng giềng, tiếp đó là các đối tác chiến lược và đối tác toàn diện.

Tuy nhiên, quan hệ đối tác của Việt Nam không chỉ dừng lại ở những đối tác truyền thống, đối tác chiến lược và đối tác toàn diện, mà còn bao gồm cả các “đối tác quan trọng khác”. Hàm ý của “đối tác quan trọng khác” này dựa trên phạm vi quan hệ đối ngoại sâu rộng hiện nay của Việt Nam. Cho đến nay, Việt Nam đã có quan hệ ngoại giao với 189/193 nước thành viên của Liên hợp quốc, là thành viên của nhiều tổ chức khu vực và quốc tế; đã ký kết 15 hiệp định thương mại tự do (FTA), trong đó FTA song phương Việt Nam - Anh và Hiệp định Đối tác Kinh tế toàn diện khu vực (RCEP) là những FTA mới nhất. Với mạng lưới quan hệ đối ngoại sâu rộng và nhiều tầng nấc như vậy, Việt Nam có lợi ích đan xen giữa các đối tác với nhau. Vì vậy, nói một cách khác, “đối tác” của Việt Nam là tất cả những nước đã thiết lập quan hệ ngoại giao, là những nước có quan hệ kinh tế với Việt Nam, là những thành viên trong các tổ chức khu vực và thế giới (như ASEAN và Liên hợp quốc), cơ chế - hiệp định đa phương (như Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương - CPTPP, RCEP, Tiểu vùng Mê Công), diễn đàn (như Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương - APEC, Diễn đàn hợp tác Á - Âu  - ASEM), các phong trào mà Việt Nam là thành viên. Nói như vậy có nghĩa không phải chỉ những mối quan hệ nào được xác định là “đối tác chiến lược” hay “đối tác toàn diện” mới là “đối tác” của Việt Nam, mà đó là chỉ dấu cho mức độ và tính chất của mối quan hệ đối tác được thiết lập trên cơ sở nhu cầu của Việt Nam và các đối tác. Lẽ dĩ nhiên, mức độ và tính chất quan hệ đối tác này sẽ quyết định phạm vi hợp tác chiến lược và toàn diện theo thỏa thuận và cách hiểu giữa hai bên, không lệ thuộc vào cách đánh giá của bên thứ ba.

Về “đối tượng”, Báo cáo chính trị tại Đại hội XIII chỉ rõ đó là những lực lượng có “âm mưu, hành động can thiệp... vào công việc nội bộ, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, an ninh quốc gia và ổn định chính trị đất nước”(11). Cùng với đó, Đại hội XIII của Đảng xác định các thách thức: 1- Tham nhũng, lãng phí, quan liêu, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ cũng như những mâu thuẫn xã hội còn diễn biến phức tạp. 2- Các thế lực thù địch tiếp tục tăng cường chống phá Đảng, Nhà nước và đất nước ta. 3- Bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định... là những thách thức rất lớn đối với nước ta trong thời gian tới(12). Hai trong số ba thách thức nêu trên trực tiếp hoặc gián tiếp liên quan đến các “đối tượng” bên ngoài. Riêng đối với thách thức thứ hai, Sách trắng Quốc phòng Việt Nam năm 2019 chỉ rõ: Tình hình Biển Đông thời gian gần đây mặc dù đã có một số chuyển biến tích cực, nhưng các yếu tố gây mất ổn định, căng thẳng vẫn tồn tại và diễn biến phức tạp đang đặt ra thách thức mới đối với việc bảo vệ chủ quyền, lãnh thổ, bảo vệ hòa bình và ổn định của Việt Nam. Những diễn biến mới trên Biển Đông, trong đó có các hành động đơn phương, áp đặt dựa trên sức mạnh, bất chấp luật pháp quốc tế và hoạt động quân sự hóa, làm thay đổi nguyên trạng, xâm phạm chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán của Việt Nam theo luật pháp quốc tế, ảnh hưởng đến lợi ích của các quốc gia liên quan, đe dọa hòa bình, ổn định, an ninh, an toàn hàng hải, hàng không trong khu vực. Ngoài ra, các vấn đề an ninh phi truyền thống, như biến đổi khí hậu, buôn bán người, khủng bố, di cư bất hợp pháp, thảm họa môi trường, dịch bệnh, thiên tai, thay đổi dòng chảy trên các con sông xuyên biên giới... tác động đến an ninh nguồn nước, an ninh lương thực, an ninh môi trường ở nhiều địa phương, cũng là những thách thức đối với sự phát triển của Việt Nam(13). Như vậy, nếu cho rằng, “đối tượng” là những gì cản trở sự phát triển của Việt Nam, chống phá chế độ, đe dọa đến sinh mệnh của Đảng Cộng sản Việt Nam và sự tồn vong của chế độ, xâm hại đến lợi ích quốc gia - dân tộc, thì “đối tượng” nên được hiểu là bao gồm cả những thách thức trên.

 Một số hướng tiếp cận và giải quyết mối quan hệ “đối tác” và “đối tượng” trong cục diện thế giới mới

Báo cáo chính trị tại Đại hội XIII của Đảng nhận định: “Thế giới đang trải qua những biến động to lớn, diễn biến rất nhanh chóng, phức tạp, khó dự báo. Hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn, song đang đứng trước nhiều trở ngại, khó khăn; cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn, xung đột cục bộ tiếp tục diễn ra dưới nhiều hình thức, phức tạp và quyết liệt hơn, làm gia tăng rủi ro đối với môi trường kinh tế, chính trị, an ninh quốc tế... Cục diện thế giới tiếp tục biến đổi theo xu hướng đa cực, đa trung tâm; các nước lớn hợp tác, thỏa hiệp, nhưng đấu tranh, kiềm chế lẫn nhau gay gắt hơn. Chủ nghĩa dân tộc cực đoan, chủ nghĩa cường quyền nước lớn, chủ nghĩa thực dụng trong quan hệ quốc tế gia tăng. Các nước đang phát triển, nhất là các nước nhỏ, đứng trước nhiều khó khăn, thách thức mới... Khu vực châu Á - Thái Bình Dương, trong đó Đông Nam Á có vị trí chiến lược ngày càng quan trọng, là khu vực cạnh tranh gay gắt giữa các cường quốc, tiềm ẩn nhiều bất ổn”(14).

Trên thực tế, tình hình thế giới, nhất là ngay trong khu vực Đông Á và Đông Nam Á, đã có những diễn biến phức tạp, nguy cơ xung đột vũ trang tăng cao liên quan đến chủ quyền và tranh chấp lãnh thổ, đe dọa đến an ninh khu vực. Không chỉ có vậy, từ khi chiến lược “Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương tự do và rộng mở” của Mỹ được thực thi, đến nay, khu vực này đã trở thành trọng tâm điều chỉnh chính sách an ninh và đối ngoại của các nước trong và ngoài khu vực. Một số nước châu Âu như Pháp, Đức, Anh cũng đã đưa ra chiến lược riêng về Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương, từng bước gia tăng can dự vào khu vực Biển Đông.

Tuần tra bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc _Ảnh: Tư liệu

Là một quốc gia nằm ở khu vực địa - chính trị đang có sự cạnh tranh gay gắt và với mạng lưới quan hệ đối ngoại sâu rộng có lợi ích đan xen, Việt Nam chịu những ảnh hưởng và tác động nhất định. Trước tình hình đó, cách tiếp cận và hướng giải quyết mối quan hệ “đối tác” và “đối tượng” trong chính sách đối ngoại của Việt Nam cần:

Một là, kiên định nguyên tắc và kiên trì những vấn đề mang tính chiến lược, nhưng khôn khéo và linh hoạt trong sách lược và triển khai thực hiện. “Dĩ bất biến ứng vạn biến” cần luôn là phương châm đối ngoại của Việt Nam trong mọi hoàn cảnh, với mọi vấn đề, giữa Việt Nam và các “đối tác”, trong mối quan hệ chuyển hóa giữa “đối tác” và “đối tượng”.

Hai là, linh hoạt trong cách nhìn nhận “đối tác” và “đối tượng”. Cần tránh quan điểm “nếu không ủng hộ ta thì là kẻ thù của ta”. Trong thực tiễn hoạt động đối ngoại, một mặt, Việt Nam phải luôn tỉnh táo nhận thức rằng “không có đồng minh vĩnh viễn”; mặt khác, cần biết tranh thủ những mặt xung đột của các “đối tượng” để có lợi cho ta. Trong quan hệ quốc tế, điều căn bản nhất đối với mọi quốc gia chính là bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc.

Ba là, “đối tác” và “đối tượng” trong chính sách đối ngoại được Đại hội XIII của Đảng thông qua phản ánh mối quan hệ hữu cơ giữa hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc và dựa trên nền tảng của các nghị quyết trước đây, nhất là Nghị quyết số 28-NQ/TW. Tuy nhiên, thực tế luôn vận động và biến đổi, do vậy, Đảng ta đã có kế hoạch tổng kết về chiến lược, trong đó bao gồm cả vấn đề xác định “đối tác” và “đối tượng”. Việc tổng kết này cần được tiến hành trên tinh thần cầu thị, lắng nghe để định hướng chính sách mang tầm chiến lược, tránh những quan điểm lợi dụng nhằm xuyên tạc và cách tiếp cận bị ảnh hưởng bởi quan điểm có tính “phe phái” trong quan hệ quốc tế. Bài học lịch sử cho thấy, dứt khoát không và không ai có thể buộc Việt Nam phải “chọn phe”. Việc ai là “đối tác” sẽ do Việt Nam chủ động thúc đẩy, nhưng đồng thời cũng rộng mở đón nhận thiện chí từ phía muốn Việt Nam là đối tác của họ trên cơ sở lợi ích quốc gia  - dân tộc được bảo đảm. Còn về “đối tượng”, trong quá trình cụ thể hóa Nghị quyết Đại hội XIII, nên chăng cần sử dụng khái niệm mềm hơn, cách diễn đạt uyển chuyển hơn, phù hợp với “những nhận thức mới và tư duy mới về an ninh quốc gia”(15), nhưng cũng kiên quyết bảo vệ những vấn đề thuộc về nguyên tắc, thuộc về lợi ích căn bản và cốt lõi của Việt Nam. Với cách tiếp cận đó, nên chăng đề xuất cách diễn đạt rõ hơn các nội dung có tính lượng hóa về “đối tượng”, đó là: Tất cả những thách thức phương hại đến an ninh quốc gia; ổn định chính trị, trật tự và an toàn xã hội; sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, chế độ xã hội chủ nghĩa, khối đại đoàn kết dân tộc; độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ đều là đối tượng cần đấu tranh nhằm bảo đảm lợi ích tối thượng của quốc gia - dân tộc. Những thách thức ở đây bao gồm cả âm mưu, hành động của các “thế lực thù địch”, những diễn biến và nguy cơ xâm phạm chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, những vấn đề an ninh phi truyền thống. Khái niệm “thách thức” ở đây mang tính định lượng, giúp chúng ta có thể minh định rõ ràng “đối tượng” trong ứng xử.

Việc xác định rõ “đối tác” và “đối tượng” trong chính sách đối ngoại của Đại hội XIII của Đảng thể hiện sự kết hợp giữa hai nhiệm vụ chiến lược của Đảng là xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Các Nghị quyết Trung ương 8 khóa IX và Nghị quyết Trung ương 8 khóa XI đã nhất quán trong việc xác định “đối tác” và “đối tượng” là cơ sở để thể chế hóa “đối tác” và “đối tượng” trong chính sách đối ngoại của Việt Nam trong tình hình mới. Kết quả của việc thực hiện chính sách đối ngoại “đa dạng hóa, đa phương hóa các quan hệ quốc tế; Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế”, sự linh hoạt trong nhận diện và triển khai nguyên tắc “đối tác” và “đối tượng” đã góp phần làm cho đất nước ta có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay./.

---------------------------

(1) Nguyễn Cơ Thạch: “Những chuyển biến trên thế giới và tư duy mới của chúng ta”, Tạp chí Nghiên cứu Quốc tế, số 1, tháng 1-1990
(2) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1991, tr. 89
(3) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Sđd, tr. 147
(4) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, tr. 41 - 42
(5) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tr. 119
(6) Nghị quyết số 07-NQ/TW, ngày 27-11-2001, của Bộ Chính trị về hội nhập kinh tế quốc tế, https://thuvienphapluat.vn/van-ban/Thuong-mai/Nghi-quyet-07-NQ-TW-hoi-nhap-kinh-te-quoc-te-112630.aspx
(7) Hoàng Xuân Lâm: “Một số vấn đề đặt ra qua 10 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 8 (khóa IX)”, http://tapchiqptd.vn/vi/nghien-cuu-tim-hieu/mot-so-van-de-dat-ra-qua-10-nam-thuc-hien-nghi-quyet-trung-uong-8-khoa-ix/4098.html
(8) Trần Thái Bình: “Một số nội dung cơ bản của Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới”, http://tapchiqptd.vn/vi/quan-triet-thuc-hien-nghi-quyet/mot-so-noi-dung-co-ban-cua-chien-luoc-bao-ve-to-quoc-trong-tinh-hinh-moi/5731.html
(9) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t.  I, tr.  162 - 163
(10) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr. 153
(11), (12) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. I, tr. 163, 108
(13) Bộ Quốc phòng: Quốc phòng Việt Nam 2019, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, tr. 19 - 20
(14) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. I, tr. 105, 106, 107
(15) Đại tướng Tô Lâm: “Những nhận thức mới và tư duy mới về an ninh quốc gia”, tham luận chuyên đề tại Hội nghị trực tuyến toàn quốc nghiên cứu, học tập, quán triệt, tuyên truyền Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, Hà Nội, ngày 28-3-2021