Phát triển thị trường trái phiếu, hướng tới hệ thống tài chính cân bằng ở Việt Nam

TS. Đào Hoàng Tuấn
Học viện Chính sách và Phát triển
15:29, ngày 14-05-2022

TCCS - Hệ thống tài chính của Việt Nam hiện đang có cấu trúc thiên lệch, dựa nhiều vào thị trường tín dụng - ngân hàng, trong khi thị trường cổ phiếu và trái phiếu phát triển chưa tương ứng. Trong thời gian tới, cần tiếp tục thực hiện các giải pháp thúc đẩy quá trình cơ cấu lại hệ thống tài chính theo hướng cân bằng hơn và đạt những mục tiêu có tính bền vững.

Tầm quan trọng của một hệ thống tài chính cân bằng giữa ba trụ cột ngân hàng, cổ phiếu và trái phiếu

Thực tiễn các nền kinh tế trên thế giới đều có hệ thống tài chính tương đối cân bằng hoặc không quá thiên lệch, giữa ba trụ cột là ngân hàng, cổ phiếu và trái phiếu. Ví dụ, hệ thống tài chính Mỹ có khuynh hướng phát triển dựa vào thị trường vốn, song, tín dụng ngân hàng năm 2019 vẫn ở mức 244% GDP. Nhật Bản phát triển hệ thống tài chính dựa vào thị trường tiền tệ nhưng vốn hóa thị trường chứng khoán xấp xỉ quy mô tín dụng là hơn 121% GDP, trong khi dư nợ thị trường trái phiếu chính phủ lên đến 209% GDP. Theo báo cáo của Ngân hàng Thế giới (WB) năm 2011, Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD) có quy mô tín dụng - ngân hàng trung bình bằng 110,2% GDP; trong khi vốn hóa thị trường cổ phiếu đạt 84,3%GDP; thị trường trái phiếu chính phủ đạt 85,3% GDP và trái phiếu doanh nghiệp 57,6% GDP. Cơ cấu hệ thống tài chính của các nền kinh tế Đông Á tương ứng đạt 60,1%; 73,4%; 25,9%; 27,8% và các nền kinh tế Đông Nam Á lần lượt là 67,9%; 77,7%; 28,3%; 11,8%(1).

Một thị trường tài chính cân bằng sẽ cung cấp thông tin công khai, minh bạch về các cơ hội đầu tư; giúp phân bổ nguồn vốn trong nền kinh tế hiệu quả hơn; giúp nhà đầu tư đa dạng hóa danh mục đầu tư với các tài sản tài chính khác nhau và giảm thiểu rủi ro đối với doanh nghiệp khi đa dạng hóa được nguồn vốn huy động ngoài ngân hàng. Bên cạnh đó, sự tồn tại của một hệ thống tài chính cân bằng sẽ giúp bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô tốt hơn, giảm thiểu rủi ro hệ thống, đặc biệt là những cú sốc từ bên ngoài. Kinh nghiệm quốc tế cho thấy, các quốc gia Đông Nam Á sau khi cải thiện tính cân bằng của hệ thống tài chính, đã có khả năng phục hồi kinh tế nhanh hơn trong cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008 so với cuộc khủng hoảng tài chính Đông Á năm 1997. Ở thời điểm cuộc khủng hoảng tài chính Đông Á năm 1997 diễn ra, các nền kinh tế mới nổi gần như chưa có một thị trường trái phiếu doanh nghiệp đúng nghĩa. Do đó, khi hệ thống ngân hàng thắt chặt tín dụng do dòng vốn quốc tế đảo chiều, các doanh nghiệp đã bị ảnh hưởng nghiêm trọng, với hậu quả kéo dài trong nhiều năm. Sau khi nhận ra điều này, các nhà lãnh đạo của các quốc gia châu Á trong khung khổ ASEAN+3 đã đề ra nhiều sáng kiến, hành động nhằm đẩy mạnh phát triển một thị trường trái phiếu ở châu Á từ năm 2003. Kết quả là, thị trường trái phiếu góp phần giảm nhẹ tác động của khủng hoảng tài chính toàn cầu đến nền kinh tế của các quốc gia châu Á trong các năm 2008 - 2009. Khi tín dụng bị thắt chặt và dòng vốn nước ngoài rút ra, các doanh nghiệp ở các nền kinh tế này đã có được kênh huy động vốn thông qua thị trường trái phiếu để thay thế cho tín dụng ngân hàng.

Giao dịch chứng khoán tại sàn giao dịch của Công ty Chứng khoán Yuanta ở Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh_Nguồn : vnexpress.net

Nếu hệ thống tài chính quá thiên lệch về tín dụng - ngân hàng, mà thiếu vắng một thị trường trái phiếu với quy mô và tính thanh khoản cao thì sẽ có những tác động tiêu cực đến nền kinh tế, cụ thể:

Thứ nhất, làm tăng rủi ro cho nền kinh tế do tình trạng tập trung tín dụng: Khi một nhóm nhỏ các ngân hàng lớn nhất chiếm phần lớn tài sản của toàn bộ hệ thống sẽ khiến toàn bộ quyết định cho vay và phân bổ nguồn lực phụ thuộc vào một số rất ít người ra quyết định. Nếu các ngân hàng này không lựa chọn đúng lĩnh vực có hiệu quả đầu tư cao hoặc có lợi thế cạnh tranh hoặc cho vay đầu tư quá nhiều vào khu vực tài chính, bất động sản thì không những tiềm ẩn nguy cơ rủi ro thanh khoản, nợ xấu, mà còn có hiệu ứng lấn át các lĩnh vực khác của nền kinh tế. Bên cạnh đó, do thiếu vắng thị trường chứng khoán trong nước, các doanh nghiệp không thuộc lĩnh vực được ngân hàng ưu tiên cấp vốn sẽ phải tìm kiếm các khoản vay trên thị trường nước ngoài bằng ngoại tệ, làm cho nền kinh tế trong nước phụ thuộc nhiều hơn vào các điều kiện ở thị trường nước ngoài, bao gồm cả những tác động tiêu cực như quy định hạn chế dòng vốn hay khủng hoảng tài chính. Đó là chưa kể khi chính sách tiền tệ bị thắt chặt, các doanh nghiệp trong một nền kinh tế dựa vào hệ thống tín dụng - ngân hàng sẽ là những người đầu tiên hứng chịu tác động.

Thứ hai, làm trầm trọng hơn tình trạng vàng hóa, đô-la hóa nền kinh tế: Do thiếu vắng thị trường trái phiếu hoạt động hiệu quả, người gửi tiền sẽ hướng đến nắm giữ những tài sản tài chính khác, như tài khoản tiết kiệm ngân hàng, cổ phiếu, vàng, kim loại quý hay ngoại tệ. Vì thế, thị trường trái phiếu phát triển hiệu quả sẽ giúp giảm tỷ lệ đô-la hóa ở các nước đang phát triển.

Thứ ba, làm giảm hiệu quả đầu tư: Các doanh nghiệp khó ước lượng được chi phí cơ hội của vốn vay khi thiếu thị trường trái phiếu hiệu quả để có thể lấy lợi tức trái phiếu làm cơ sở cho các quyết định đầu tư. Hệ quả là doanh nghiệp có thể đầu tư quá nhiều so với mức độ hiệu quả đầu tư có thể mang lại thay vì nắm giữ trái phiếu.

Thứ tư, làm gia tăng sở hữu chéo trong hệ thống ngân hàng: So với trái phiếu, kỳ hạn của các khoản tín dụng thường ngắn hạn hơn nhiều. Điều này ảnh hưởng đến khả năng huy động vốn trung và dài hạn của các doanh nghiệp. Do đó, các doanh nghiệp lớn sẽ có động cơ gia tăng đầu tư cổ phần và kiểm soát các ngân hàng thương mại, gây ra tình trạng sở hữu chéo giữa ngân hàng và doanh nghiệp hết sức phức tạp, từ đó doanh nghiệp thường được cho vay với mức lãi suất thấp hơn nhưng khả năng không trả nợ cao hơn so với thị trường, làm méo mó các quan hệ tín dụng, tạo những rủi ro khó lường về an ninh kinh tế.

Những chính sách phát triển thị trường tài chính Việt Nam thời gian qua

Hiện nay, phát triển đồng bộ và cân bằng giữa thị trường tài chính và thị trường tiền tệ là một trong những vấn đề quan trọng nhất của quá trình cấu trúc lại nền kinh tế Việt Nam. Từ nhiều năm trước, trong Quyết định số 450/QĐ-TTg ngày, 18-4-2012, của Thủ tướng Chính phủ, “Về việc phê duyệt Chiến lược tài chính đến năm 2020”, vấn đề tài chính cân bằng đã được đặt ra. Tuy nhiên, vấn đề này chỉ thực sự được nhận diện rõ nét với các mục tiêu và giải pháp cụ thể trong Nghị quyết số 11-NQ/TW, ngày 3-6-2017, của Hội nghị Trung ương 5 khóa XII, “Về hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”. Điều này tiếp tục được khẳng định trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2021 - 2030 được thông qua tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng với yêu cầu tiếp tục rà soát, cơ cấu lại, nâng cao hiệu quả các thị trường tài chính, chứng khoán, cổ phiếu, trái phiếu.

Hệ thống ngân hàng vẫn đang đóng vai trò là kênh dẫn vốn chủ yếu cho nền kinh tế Việt Nam, vì thế, để hướng tới một cấu trúc tài chính cân bằng, cần tăng quy mô của thị trường cổ phiếu và thị trường trái phiếu, nâng cao tính thanh khoản, đa dạng về kỳ hạn và cấu trúc sở hữu. Do thị trường cổ phiếu đã có những bước phát triển khả quan trong thời gian qua, cụ thể là tính đến ngày 31-12-2021, giá trị vốn hóa đạt 84,1% GDP vào cuối năm 2020, vượt chỉ tiêu đề ra, nên cần tập trung vào các vấn đề phát triển thị trường trái phiếu chính phủ và trái phiếu doanh nghiệp.

Quyết định số 450/QĐ-TTg, ngày 18-4-2012, của Thủ tướng Chính phủ “Về phê duyệt Chiến lược tài chính đến năm 2020” đã xây dựng tầm nhìn ban đầu cho phát triển thị trường trái phiếu đặt trong khung khổ phát triển tổng thể hệ thống tài chính ở Việt Nam; đặt ra nhiệm vụ phát triển đồng bộ các loại thị trường…, bảo đảm sự phát triển đồng bộ, cân đối giữa thị trường cổ phiếu, trái phiếu (gồm trái phiếu chính phủ, trái phiếu địa phương và trái phiếu doanh nghiệp) và chỉ tiêu dư nợ thị trường trái phiếu đạt 30% GDP vào năm 2020.

Tuy vậy, các vấn đề phát triển hệ thống tài chính cân bằng được chú ý rõ hơn trong Quyết định số 1191/QĐ-TTg, ngày 14-8-2017, của Thủ tướng Chính phủ, “Về phê duyệt Lộ trình phát triển thị trường trái phiếu giai đoạn 2017 - 2020, tầm nhìn 2030”. Quyết định này đưa ra quan điểm tổng quát là: Xây dựng và phát triển thị trường trái phiếu phù hợp với mức độ phát triển của nền kinh tế, đồng bộ với các cấu phần khác của thị trường tài chính, trong đó có thị trường cổ phiếu và thị trường tiền tệ - tín dụng ngân hàng; phát triển thị trường trái phiếu cả về chiều rộng và chiều sâu…, tiếp cận các thông lệ, chuẩn mực quốc tế…, đưa thị trường trái phiếu trở thành một kênh huy động vốn trung và dài hạn quan trọng của nền kinh tế với chi phí hợp lý.

Các mục tiêu và giải pháp cụ thể, bao gồm: Phấn đấu đưa dư nợ thị trường trái phiếu đạt khoảng 45% GDP vào năm 2020 và khoảng 65% GDP vào năm 2030 (cao hơn so với Quyết định số 450/QĐ-TTg), trong đó dư nợ thị trường trái phiếu chính phủ, trái phiếu chính phủ bảo lãnh và trái phiếu chính quyền địa phương đạt khoảng 38% GDP vào năm 2020 và khoảng 45% GDP vào năm 2030, dư nợ thị trường trái phiếu doanh nghiệp đạt khoảng 7% GDP vào năm 2020 và khoảng 20% GDP vào năm 2030.

Phấn đấu kỳ hạn bình quân danh mục phát hành trái phiếu chính phủ trong nước giai đoạn 2017 - 2020 đạt 6 - 7 năm; giai đoạn 2021 - 2030 đạt 7 - 8 năm. Tăng khối lượng giao dịch trái phiếu chính phủ, trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh và trái phiếu chính quyền địa phương bình quân phiên lên mức 1% dư nợ trái phiếu niêm yết vào năm 2020 và 2% dư nợ trái phiếu niêm yết vào năm 2030. Tăng tỷ trọng trái phiếu chính phủ do các công ty bảo hiểm, bảo hiểm xã hội, quỹ hưu trí, quỹ đầu tư và các tổ chức tài chính phi ngân hàng nắm giữ lên mức 50% năm 2020 và mức 60% vào năm 2030.

Nhiều giải pháp có tính hệ thống được đưa ra, như sửa đổi các luật và nghị quyết của Quốc hội có liên quan đến việc phát hành trái phiếu chính phủ để bảo đảm huy động vốn cho ngân sách, quản lý rủi ro nợ công; cho phép các tổ chức tín dụng sử dụng trái phiếu chính phủ là một phần của dự trữ bắt buộc; cho phép Bảo hiểm xã hội Việt Nam được đầu tư vào trái phiếu doanh nghiệp; sửa đổi các nghị định hiện hành về phát hành trái phiếu doanh nghiệp ra công chúng và phát hành riêng lẻ; phát triển thị trường trái phiếu xanh, xây dựng quy định về giao dịch kỳ hạn, phát triển thị trường thứ cấp,...

Hệ thống ngân hàng vẫn đang đóng vai trò là kênh dẫn vốn chủ yếu cho nền kinh tế Việt Nam_Ảnh: Tư liệu

Thực trạng phát triển hệ thống tài chính tại Việt Nam

Hiện nay, cơ cấu hệ thống tài chính Việt Nam có sự thiên lệch lớn về phía thị trường tiền tệ (tín dụng - ngân hàng), dù thị trường vốn đã có những cải thiện đáng kể trong thời gian qua. Quy mô tín dụng ngân hàng vẫn vượt xa quy mô của thị trường cổ phiếu (dù thị trường này đã tăng trưởng mạnh thời gian qua) và quy mô thị trường trái phiếu còn rất hạn chế. Số liệu thống kê cho thấy, tính đến cuối năm 2021, quy mô tín dụng ước đạt hơn 160% GDP; tổng mức vốn hóa các thị trường chứng khoán chỉ đạt hơn 128% GDP (bằng khoảng 80% so với quy mô tín dụng)(2); trong đó, vốn hóa thị trường cổ phiếu đạt gần 86%, gấp đôi vốn hóa thị trường trái phiếu (42%), quy mô thị trường trái phiếu doanh nghiệp cũng chỉ bằng khoảng 75% so với trái phiếu chính phủ.

Việc triển khai lộ trình phát triển thị trường trái phiếu theo Quyết định số 1191/QĐ-TTg trong thời gian qua đạt được những kết quả khả quan, như:

Một là, cấu trúc của hệ thống tài chính đã trở nên cân bằng hơn. Quy mô thị trường vốn tăng trưởng tốt, vốn hóa thị trường cổ phiếu tăng từ 15,4% GDP (năm 2011) lên 54,1% GDP (năm 2018) và 85,5% GDP (năm 2021); dư nợ thị trường trái phiếu chính phủ tăng từ 12,7% (năm 2011) lên 30,5% (năm 2018) nhưng giảm còn 24,3% (năm 2021); thị trường trái phiếu doanh nghiệp tăng từ 1,7% (năm 2011) lên 8,6% (năm 2018) và đạt 18,2% GDP (năm 2021)(3). Trong khi quy mô tín dụng ngân hàng cũng tăng trưởng từ mức 107,7% - 133,3% GDP trong cùng giai đoạn và đạt 160% GDP năm 2021. Bước phát triển nhanh của các thị trường cổ phiếu, thị trường trái phiếu chính phủ, trái phiếu doanh nghiệp làm cho hệ thống tài chính cân bằng hơn, đặc biệt là giữa hệ thống ngân hàng và thị trường cổ phiếu.

Hai là, thị trường trái phiếu từng bước phát triển đa dạng hơn về cấu trúc kỳ hạn, đặc biệt là trái phiếu chính phủ. Đã phát hành thành công trái phiếu chính phủ có kỳ hạn dài, hình thành đường cong lãi suất không rủi ro của trái phiếu chính phủ, là cơ sở để phát triển thị trường trái phiếu doanh nghiệp. Năm 2020, thị trường trái phiếu chính phủ giao dịch sôi động, là điểm sáng của thị trường tài chính trong nước; khối lượng trái phiếu chính phủ do Kho bạc Nhà nước phát hành đạt 333 nghìn tỷ đồng, tăng 39% so với năm 2019. Danh mục trái phiếu chính phủ được cơ cấu lại theo hướng kỳ hạn dài hơn, trung bình đạt khoảng 14 năm (so với 3 - 4 năm thời kỳ 2008 - 2011) và lãi suất thấp hơn, trung bình đạt 2,86%/năm (so với trên 10%/năm thời kỳ 2008 - 2011). Thị trường thứ cấp cũng có mức tăng trưởng đột biến trong năm 2020 lên tới gần 50% so với cùng kỳ năm trước, đạt gần 6,5 nghìn tỷ đồng/phiên. 

Kết quả trên cho thấy, chính sách phát triển hệ thống tài chính cân bằng đặt ra là đúng hướng và tương đối hiệu quả. Dù vậy, sự phát triển vượt bậc của thị trường cổ phiếu và trái phiếu chủ yếu tập trung vào năm 2020, là năm đặc biệt do có tác động của đại dịch COVID-19. Nhờ chi tiêu giảm, tiết kiệm gia tăng, thanh khoản của thị trường dồi dào nên thị trường vốn có điều kiện phát triển trong môi trường lãi suất thấp. Do đó, sự phát triển của thị trường mới chỉ về quy mô, chưa thực sự bền vững và phát triển về chất lượng. Thực trạng thị trường trái phiếu Việt Nam vẫn tồn tại nhiều hạn chế, như:

Thứ nhất, các ngân hàng thương mại vẫn là chủ thể giao dịch chính trên thị trường trái phiếu với tỷ trọng chiếm khoảng hơn 80%. Chỉ tiêu gia tăng tỷ trọng nắm giữ trái phiếu chính phủ của các công ty bảo hiểm, bảo hiểm xã hội, quỹ hưu trí, quỹ đầu tư và các tổ chức tài chính phi ngân hàng khác lên 50% vào năm 2020 chưa đạt được.

Thứ hai, so với thị trường trái phiếu chính phủ, thị trường trái phiếu doanh nghiệp còn quá manh mún. Hiện tại, thị trường trái phiếu có 477 mã trái phiếu niêm yết, trong đó có 454 mã trái phiếu chính phủ, chỉ có 23 mã trái phiếu doanh nghiệp. Bên cạnh đó, kỳ hạn trái phiếu doanh nghiệp cũng kém đa dạng hơn, với chủ yếu là kỳ hạn 1 - 5 năm. Hơn nữa, trái phiếu của các doanh nghiệp phi ngân hàng có kỳ hạn đặc biệt ngắn, cho thấy sự khó khăn của các doanh nghiệp phi ngân hàng trong huy động vốn trung và dài hạn qua kênh trái phiếu.

Thứ ba, dù đã có những bước tiến bộ về quy mô, song tính thanh khoản của thị trường trái phiếu thứ cấp còn kém. Các công ty chứng khoán, ngân hàng hay mua trái phiếu và giữ đến ngày đáo hạn. Việc kém phát triển của thị trường thứ cấp hạn chế sự phát triển của thị trường sơ cấp (hạn chế khả năng vay và cho vay dài hạn trong nền kinh tế).

Ngoài những vấn đề nội tại trên, thị trường trái phiếu Việt Nam còn phải đối mặt với những thách thức bên ngoài sau đây:

Một là, môi trường vĩ mô. Các ổn định vĩ mô, tỷ giá, lãi suất, đặc biệt là lạm phát có ý nghĩa quan trọng hàng đầu đối với thị trường trái phiếu. Ít nhất trong ngắn hạn, môi trường vĩ mô của Việt Nam đang ở trạng thái lạc quan; nền kinh tế dự kiến sẽ phục hồi trở lại với mức tăng trưởng GDP cao (6,5 - 7,5%), các chỉ số lạm phát, nợ công được kiểm soát trong mục tiêu đề ra. Trong khi đó, chính sách nới lỏng tiền tệ vẫn là chủ đạo và thanh khoản của hệ thống ngân hàng thương mại vẫn dồi dào với dòng vốn ngoại tệ chảy vào khá lớn, cùng quá trình đẩy mạnh đầu tư công. Tuy nhiên, bội chi NSNN có thể gia tăng và lạm phát quay trở lại khiến cho bức tranh vĩ mô kém thuận lợi hơn.

Hai là, thiếu các tổ chức xếp hạng tín nhiệm và định giá làm hạn chế khả năng của nhà đầu tư tư nhân trong việc tiếp cận thông tin doanh nghiệp một cách đầy đủ và đánh giá rủi ro của doanh nghiệp phát hành trái phiếu ở Việt Nam. Điều này gây khó khăn trong việc định mức giá trái phiếu phù hợp, khiến cho thị trường kém minh bạch và rủi ro cao. Chỉ số bảo vệ nhà đầu tư của Việt Nam vẫn ở mức thấp so với quốc tế. Có trường hợp doanh nghiệp phát hành trái phiếu với khối lượng lớn gấp nhiều lần so với vốn chủ sở hữu, huy động thông qua chia nhỏ làm nhiều đợt phát hành. Nghị định số 81/2020/NĐ-CP, ngày 9-7-2020, của Chính phủ, “Sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 163/2018/NĐ-CP ngày 04 tháng 12 năm 2018 quy định về phát hành trái phiếu doanh nghiệp” được ban hành để siết chặt hơn các quy định về điều kiện phát hành là cần thiết để nâng cao năng lực quản lý rủi ro.

Ba là, thị trường trái phiếu doanh nghiệp thiếu hàng hóa có chất lượng. Các doanh nghiệp trong nước chưa có thói quen huy động vốn qua kênh trái phiếu nên sự đa dạng về nguồn cung là thấp. Ngoài ra, nhiều doanh nghiệp chưa tuân thủ đầy đủ các chuẩn mực và thông lệ quốc tế về công bố thông tin, quản trị doanh nghiệp và bảo vệ nhà đầu tư. Đa số các doanh nghiệp phát hành trái phiếu dưới hình thức phát hành riêng lẻ, phát hành ra công chúng chỉ chiếm 3%, điều này làm gia tăng rủi ro cho các nhà đầu tư cá nhân. Đặc biệt, thời gian qua, thị trường trái phiếu doanh nghiệp có biểu hiện phát triển thiếu lành mạnh, ẩn chứa những rủi ro cho nhà đầu tư.

Bốn là, các chủ thể tham gia thị trường thiếu tính đa dạng và thiếu các nhà đầu tư dài hạn có tiềm lực tài chính mạnh. Hiện nay, nhà đầu tư chủ yếu là các ngân hàng thương mại. Sự tham gia của các quỹ hưu trí, công ty bảo hiểm vào thị trường còn hạn chế. Một trong những lý do chính là bởi bảo hiểm xã hội và nhiều công ty bảo hiểm là doanh nghiệp nhà nước cổ phần hóa với đa số sở hữu nhà nước; các tổ chức và doanh nghiệp này thường gửi quá nhiều tiền vào tài khoản tiết kiệm (trên 80%); trong khi đó, thông lệ quốc tế là các quỹ hưu trí, công ty bảo hiểm đầu tư khá lớn vào cổ phiếu và nhất là trái phiếu.  

Một số giải pháp phát triển thị trường trái phiếu, hướng tới xây dựng hệ thống tài chính cân bằng ở Việt Nam

Dù đã có nhiều cải thiện, song cấu trúc hệ thống tài chính của Việt Nam vẫn đang thiên lệch về phía thị trường tín dụng - ngân hàng. So với các nền kinh tế phát triển và trong khu vực thì quy mô thị trường trái phiếu chính phủ và trái phiếu doanh nghiệp của Việt Nam ở thời điểm hiện tại chỉ tương đương các nước Đông Nam Á, như Malaysia, Thái Lan 10 năm trước đây. Hệ thống tài chính bất cân bằng tiềm ẩn rủi ro cao và bất ổn vĩ mô do hạn chế khả năng huy động vốn của doanh nghiệp, giảm hiệu quả đầu tư... Do đó, việc hướng đến sự phát triển hợp lý giữa thị trường tiền tệ và thị trường vốn, giữa thị trường cổ phiếu và thị trường trái phiếu, giữa thị trường trái phiếu chính phủ và trái phiếu doanh nghiệp là rất cần thiết.

Chiến lược Tài chính đến năm 2030 được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt theo Quyết định số 368/QĐ-TTg, ngày 21-3-2022, đề ra mục tiêu phát triển thị trường trái phiếu trong thời gian tới cả về quy mô và độ sâu, nâng cao tính thanh khoản, đa dạng hóa sản phẩm; phấn đấu đến năm 2025, quy mô thị trường trái phiếu đạt tối thiểu 47% GDP, trong đó quy mô thị trường trái phiếu doanh nghiệp đạt tối thiểu 20% GDP; đến năm 2030, quy mô thị trường trái phiếu đạt tối thiểu 58% GDP, trong đó quy mô thị trường trái phiếu doanh nghiệp đạt tối thiểu 25% GDP.

Để đạt được những mục tiêu trên, bên cạnh việc tiếp tục giữ ổn định vĩ mô, kiểm soát tốt các chỉ tiêu cơ bản như lạm phát, lãi suất và trạng thái cân bằng ngân sách và tỷ lệ nợ công trong giới hạn đề ra, cần tập trung thực hiện một số giải pháp sau:

Thứ nhất, hoàn thiện hành lang pháp lý liên quan để phát triển thị trường trái phiếu doanh nghiệp an toàn, ổn định, bền vững; rà soát khắc phục, giải quyết các vướng mắc phát sinh trong hoạt động của thị trường trái phiếu. Cụ thể: cần tập trung vào hoạt động chào bán chứng khoán riêng lẻ, tổ chức thị trường giao dịch trái phiếu doanh nghiệp riêng lẻ giữa các nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp tại sở giao dịch chứng khoán, chuẩn hóa quy định về việc công bố thông tin của doanh nghiệp phát hành. Đặc biệt, cần tiến tới xây dựng khung khổ pháp lý cho thị trường trái phiếu doanh nghiệp xanh, như quy định về các dự án sử dụng vốn trái phiếu xanh, giao dịch trái phiếu xanh…

Thứ hai, có chính sách khuyến khích các doanh nghiệp phát triển, đa dạng hóa hàng hóa trái phiếu doanh nghiệp phù hợp với nhu cầu huy động vốn. Thực hiện ưu đãi về thuế đối với các doanh nghiệp chào bán trái phiếu ra công chúng. Xây dựng quy định, quy chuẩn về trái phiếu xanh và các sản phẩm trái phiếu doanh nghiệp dự án hợp tác công - tư (PPP).

Thứ ba, khuyến khích thành lập và thu hút các tổ chức tư vấn, xếp hạng tín nhiệm, định giá tham gia thị trường để nâng cao chất lượng trái phiếu doanh nghiệp được phát hành và giúp nhà đầu tư có thêm thông tin về rủi ro và định giá hợp lý khi mua bán trái phiếu. Các chính sách hỗ trợ, bao gồm: xây dựng hành lang pháp lý về tổ chức và hoạt động cũng như hỗ trợ các tổ chức này trong thời gian đầu về kỹ thuật, tài chính, đào tạo nguồn nhân lực, tiếp cận thông tin doanh nghiệp,... Đồng thời, cần sửa đổi, bổ sung Nghị định số 88/2014/NĐ-CP, ngày 26-9-2014, của Chính phủ, “Quy định về dịch vụ xếp hạng tín nhiệm” nhằm tiến tới nâng cao chất lượng hoạt động xếp hạng tín nhiệm trên thị trường.

Thứ tư, đa dạng hóa các chủ thể tham gia trên thị trường trái phiếu, ưu tiên các nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp, các định chế tài chính trung gian, bao gồm cả các quỹ hưu trí, bảo hiểm xã hội, các công ty bảo hiểm có sở hữu của Nhà nước. Đồng thời, phát triển các quỹ đầu tư chứng khoán để nhà đầu tư cá nhân tham gia thị trường thông qua các quỹ đầu tư và giảm thiểu rủi ro.

Thứ năm, nâng cao chất lượng kết cấu hạ tầng, cải thiện chất lượng dịch vụ của thị trường trái phiếu, như nâng cao tính minh bạch, công bố thông tin, nâng cấp trang thông tin điện tử về trái phiếu doanh nghiệp, cơ sở dữ liệu về thị trường phục vụ nhà đầu tư. Bên cạnh đó, tiếp tục hoàn thiện, nâng cấp kết cấu hạ tầng thị trường thứ cấp để tăng tính thanh khoản cho các trái phiếu doanh nghiệp đã phát hành.

Thứ sáu, tăng cường quản lý, giám sát thị trường và tiếp tục đẩy mạnh tuyên truyền các quy định liên quan đến hoạt động của thị trường chứng khoán để các doanh nghiệp, nhà đầu tư và tổ chức cung cấp dịch vụ trên thị trường hiểu đúng và tuân thủ các quy định pháp luật khi tham gia thị trường. Điều đó sẽ góp phần bảo đảm thị trường hoạt động thông suốt, hạn chế rủi ro và bảo đảm quyền lợi các nhà đầu tư./.

---------------------------------

(1) Nguồn: Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB), 2015. Các số liệu trung bình của khu vực đã tính trọng số theo GDP của các nền kinh tế thành viên
(2), (3) Theo ADB và Ngân hàng Thế giới (WB), 2022