TCCS - Công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng gắn bó mật thiết với việc đẩy mạnh và hoàn thiện mô hình ủy ban kiểm tra đảng các cấp, nhằm tối ưu hóa kiểm soát quyền lực, gắn với đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng trong điều kiện mới hiện nay.

Hội nghị toàn quốc tổng kết công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật của Đảng năm 2018, triển khai nhiệm vụ năm 2019 do Ủy ban Kiểm tra Trung ương tổ chức tại Hà Nội, ngày 23-1-2019_Nguồn:  qdnd.vn

Tiếp tục khẳng định vai trò của ủy ban kiểm tra đảng các cấp

Từ nhiệm kỳ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng đến nay, ủy ban kiểm tra (UBKT) các cấp có mô hình tổ chức gồm có chủ nhiệm, các phó chủ nhiệm (trong đó có 1 phó chủ nhiệm thường trực) và các ủy viên. Hầu hết thành viên UBKT các cấp đã được cấp ủy các cấp tiến hành bầu cử theo đúng quy định của Điều lệ Đảng và quy định, hướng dẫn của Trung ương. Thành viên UBKT các cấp là những đồng chí qua nhiều cương vị công tác, được tu dưỡng, rèn luyện, thử thách, tham gia quản lý, lãnh đạo, chỉ đạo ở các cơ quan, ban, ngành; một số đồng chí tham gia và trưởng thành trong chiến đấu, có quan điểm, bản lĩnh, lập trường chính trị vững vàng, nhạy cảm về chính trị, có tinh thần đấu tranh, bảo vệ đường lối, quan điểm của Đảng, không mơ hồ, bi quan, dao động. Trong thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao, luôn nhìn thẳng vào sự thật, có chính kiến và thái độ rõ ràng trong đấu tranh với những hành vi sai trái, nhất là đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, chống “tư duy nhiệm kỳ”, “lợi ích nhóm”, chạy chức, chạy quyền; có ý thức tổ chức kỷ luật, gương mẫu, có tinh thần xây dựng, đoàn kết, thống nhất trong nội bộ, giữ vững nguyên tắc đảng. Khi xử lý công việc luôn phát huy dân chủ, biết lắng nghe ý kiến, phân biệt đúng sai, bảo đảm tính khách quan, công tâm, trung thực; có tư duy độc lập, khả năng phân tích, tổng hợp các vấn đề phát sinh trong thực tiễn; có tinh thần trách nhiệm cao, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung, không mưu lợi cá nhân; có kiến thức và kinh nghiệm, am hiểu thực tế, phát huy được vai trò trách nhiệm, vượt lên mọi khó khăn, thách thức. Với những phẩm chất đó, hầu hết các đồng chí thành viên UBKT các cấp luôn được cán bộ, đảng viên và nhân dân tin cậy, ủng hộ, góp phần nâng cao uy tín của UBKT các cấp trong mọi thời kỳ. Tuy nhiên, UBKT thường thay đổi theo nhiệm kỳ, dẫn đến chất lượng, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát phần nào chưa cao; một số thành viên UBKT kiêm chức, do phải tập trung vào nhiệm vụ chính theo chức trách nhiệm vụ chính của mình, chưa dành thời gian thỏa đáng cho công tác kiểm tra, giám sát; thiếu tính chủ động trong việc thực hiện chức năng, quyền hạn của UBKT và từng thành viên UBKT, thậm chí có lúc còn gây khó khăn, trở ngại trong quá trình tham gia thảo luận, quyết định những quyết sách, vụ, việc kiểm tra, giám sát thi hành kỷ luật đảng cụ thể. Nhất là, trong tình hình hiện nay, dưới tác động của mặt trái cơ chế thị trường và toàn cầu hóa kinh tế, thì sự tha hóa quyền lực, tham nhũng, “lợi ích nhóm” ngày càng diễn biến phức tạp, một số đảng viên có chức, có quyền còn lợi dụng chức vụ, quyền hạn được giao cố ý làm trái, nhũng nhiễu doanh nghiệp và người dân, vi phạm Điều lệ Đảng, pháp luật của Nhà nước. Tình trạng “phả hệ, dòng họ, quan hệ, tiền tệ”; hiện tượng “ô dù”, “nâng đỡ không trong sáng” cho chạy chức, chạy quyền hoặc bao che cho những người không đủ tiêu chuẩn, điều kiện, có “vấn đề” vẫn còn xảy ra ở không ít nơi, gây bức xúc trong xã hội. Có trường hợp UBKT các cấp muốn xử lý đảng viên vi phạm nhưng gặp khó khăn, vướng mắc vì sự “can thiệp, tác động” của những người có chức, có quyền trong tổ chức đảng hoặc là người đã từng giữ chức vụ, quyền hạn đã nghỉ hưu, chuyển công tác khác nên chậm hoặc khó xử lý. Chế độ, chính sách đối với thành viên UBKT chưa thực sự thỏa đáng (chưa tương đương với các phó trưởng ban đảng, chỉ có phó chủ nhiệm UBKT là tương đương với phó trưởng ban đảng); ngoài ra, trong UBKT cũng còn có các chức danh khác nhau (chủ nhiệm, phó chủ nhiệm, thành viên UBKT), nên cũng có chức trách, nhiệm vụ khác nhau và chế độ, chính sách với từng loại chức danh cũng khác nhau....

Vì vậy, yêu cầu đặt ra là cần tiếp tục hoàn thiện mô hình UBKT các cấp nhằm đáp ứng được yêu cầu của nhiệm vụ, nhất là đòi hỏi của việc kiểm soát quyền lực và yêu cầu đổi mới phương thức lãnh đạo, nâng cao năng lực cầm quyền của Đảng hiện nay.

Để tối ưu hóa việc kiểm soát quyền lực gắn với đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng hiện nay

Việc đề xuất hoàn thiện mô hình UBKT các cấp dựa trên các căn cứ lý luận và thực tiễn sau:

Thứ nhất, kiểm tra, giám sát là những chức năng lãnh đạo của Đảng, là một khâu quan trọng của tổ chức thực hiện, là biện pháp hiệu nghiệm để khắc phục bệnh quan liêu... Lãnh đạo mà không kiểm tra, giám sát thì coi như không lãnh đạo. Công tác kiểm tra, giám sát có vị trí cực kỳ quan trọng trong toàn bộ hoạt động lãnh đạo của Đảng. Kiểm tra, giám sát và giữ gìn kỷ luật của Đảng là nhiệm vụ của toàn Đảng. Các tổ chức, từ cơ quan đảng, nhà nước đến các lĩnh vực hoạt động kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại,... đều phải đặt dưới sự kiểm tra, giám sát của tổ chức đảng có thẩm quyền, không có ngoại lệ. Mặt khác, công tác kiểm tra, giám sát là một trong những phương thức lãnh đạo quan trọng của Đảng nên cùng với đổi mới phương thức, nội dung lãnh đạo của Đảng thì việc đổi mới, hoàn thiện mô hình UBKT các cấp là tất yếu khách quan. 

Hơn nữa, Đảng ta là đảng cầm quyền, lấy tập trung dân chủ làm nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và hoạt động. Vì vậy, cùng với việc xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa thì vấn đề dân chủ trong Đảng cũng cần được đổi mới; càng dân chủ, càng đoàn kết. Một nền dân chủ thực sự sẽ khắc phục được tình trạng nể nang, né tránh, không dám đấu tranh trong Đảng và bộ máy nhà nước, sẽ ngăn ngừa sự tha hóa quyền lực, tình trạng “chạy chức”, “chạy quyền”, “chạy tội”... như hiện tượng những người không thực đức, thực tài mà chỉ “chạy” giỏi, xu nịnh, hối lộ cấp trên, mua chuộc cấp dưới hoặc đồng cấp thì dễ được trọng dụng, đề bạt đang diễn ra hết sức nhức nhối trong một số tổ chức ở các cấp, các ngành hiện nay.

Thứ hai, Đại hội IX của Đảng đã khẳng định: “Lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động là bước phát triển quan trọng trong nhận thức và tư duy lý luận của Đảng ta”(1). Vì vậy, Đảng ta cần tăng cường học tập, nghiên cứu, vận dụng sáng tạo và phát triển lý luận của V.I. Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng đảng kiểu mới nói chung và về kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng nói riêng vào điều kiện đảng cộng sản cầm quyền trong giai đoạn cách mạng mới.    

V.I. Lê-nin đã chỉ rõ: “Thừa nhận sự cần thiết phải thành lập Ban kiểm tra song song với Ban chấp hành trung ương, thành phần ban này phải gồm những đồng chí có trình độ nhất định trong lĩnh vực công tác đảng, có kinh nghiệm nhất, không thiên vị và có khả năng thực hiện công tác kiểm tra hoàn toàn theo tinh thần của đảng. Là một cơ quan do đại hội đảng bầu ra, Ban kiểm tra phải được quyền thu nhận mọi đơn khiếu tố và xem xét các đơn ấy, trao đổi ý kiến với Ban chấp hành trung ương, trong trường hợp cần thiết thì tổ chức những phiên họp chung, liên tịch với Ban chấp hành trung ương hoặc chuyển vấn đề cho đại hội đảng giải quyết”(2). Ban kiểm tra do đại hội đảng bầu là quan điểm, nguyên tắc quan trọng trong học thuyết về xây dựng đảng kiểu mới của V.I. Lê-nin. Đảng Cộng sản Liên bang Nga đã triển khai thực hiện quan điểm này từ năm 1920 đến năm 1934. Trong thời gian này, Ban Kiểm tra Trung ương là một cơ quan làm việc rất tốt, nhưng rất tiếc, đến Đại hội XVII của Đảng Cộng sản Liên Xô (năm 1934), theo đề nghị của Tổng Bí thư thì việc Ban Kiểm tra Trung ương do Đại hội Đảng bầu bị bãi bỏ và thay vào đó là Ủy ban Kiểm tra Trung ương do Ban Chấp hành Trung ương bầu. Sau khi chiến thắng chủ nghĩa phát-xít, bước vào xây dựng chủ nghĩa xã hội, đặc biệt trong bối cảnh Chiến tranh lạnh - “diễn biến hòa bình” chống CNXH của các nước phương Tây vào những năm cuối thập niên 80, đầu thập niên 90 của thế kỷ XX, trước sự chia rẽ sâu sắc và bất cập trong Đảng thì Ủy ban Kiểm tra Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô tuy do Đại hội bầu, nhưng đã quá muộn nên không còn đủ sức giữ gìn sự trong sạch của Đảng, dẫn đến sự kiện Đảng Cộng sản Liên Xô tự tan rã. Đây cũng là bài học cảnh tỉnh xương máu mà Đảng ta cần phải nghiên cứu và rút ra bài học.

V.I. Lê-nin còn khẳng định, Ban kiểm tra trung ương có quyền tham dự vào các kỳ hội nghị toàn thể Ban chấp hành trung ương - hội nghị tối cao của Đảng. Người đề nghị trao quyền hạn cụ thể cho “những ủy viên Ban kiểm tra trung ương có nhiệm vụ tham dự, với một số lượng nhất định, vào mỗi phiên họp của Bộ chính trị, sẽ phải là một nhóm cố kết, nó, “không được vị nể cá nhân”, phải giữ gìn sao cho không được một quyền uy nào của Tổng bí thư hay là của một ủy viên nào trong Ban chấp hành trung ương có thể ngăn cản mình chất vấn, kiểm tra các hồ sơ, và nói chung, nắm được tình hình hết sức rõ ràng và xử lý mọi việc hết sức đúng đắn”(3). Đương nhiên, V.I. Lê-nin không chỉ quan tâm đến kiện toàn mô hình tổ chức Ban kiểm tra cũng như cơ chế hoạt động của nó, mà Người còn rất quan tâm đến xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác kiểm tra, từ khâu lựa chọn, đào tạo, bồi dưỡng đến chế độ đãi ngộ.

Lý luận của V.I. Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: Lãnh đạo là chức năng bao trùm của Đảng, chức năng này được quy định ngay từ quy luật ra đời của Đảng. Quy trình lãnh đạo của Đảng bao gồm soạn thảo chủ trương, chính sách; tổ chức thực hiện chủ trương, chính sách; và tổ chức kiểm tra, giám sát việc thực hiện... Quy trình lãnh đạo của Đảng rất hoàn chỉnh, không thể cắt xén hoặc giảm bớt, xem nhẹ bất cứ khâu nào. Sự chia tách quy trình lãnh đạo thành 3 khâu chỉ mang tính tương đối, vì kiểm tra, giám sát không phải là khâu cuối cùng của quy trình, mà nó đã đan xen vào tất cả các khâu, tạo nên sự hoàn chỉnh, thống nhất và đồng bộ của quy trình lãnh đạo. Kiểm tra, giám sát là những chức năng, phương thức lãnh đạo của Đảng, điều này hoàn toàn đúng, chính xác cả về lý luận và thực tiễn. Sự đúng đắn, chính xác của đường lối, chủ trương chính sách của Đảng phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó có yếu tố rất quan trọng là công tác kiểm tra, giám sát.     

Thứ ba, thực tiễn hoạt động của UBKT các cấp thời gian qua cho thấy, UBKT cần có tính độc lập tương đối và hoạt động theo nguyên tắc đảng, được giải quyết công việc theo thẩm quyền ghi trong Điều lệ Đảng và các quy định của Đảng, mới thực sự phát huy đầy đủ hiệu quả là cơ quan kiểm tra, giám sát chuyên trách của Đảng. Thực tế cho thấy, mô hình UBKT hiện nay, bên cạnh những ưu điểm, đã bộc lộ những điều chưa đáp ứng được yêu cầu; nếu ở đâu cấp ủy, nhất là thường trực, thường vụ và người đứng đầu cấp ủy không thực sự quan tâm và tạo điều kiện (thậm chí còn ngăn cản, can thiệp, gây trở ngại) cho công tác kiểm tra, giám sát, nhất là khi liên quan đến một số đảng viên là cán bộ chủ chốt thì công tác kiểm tra, giám sát tiến hành khó khăn, chứ chưa nói đến chất lượng, hiệu lực, hiệu quả.

Cần tạo sự thuận lợi cho UBKT phát huy vai trò, trách nhiệm của mình trong công việc, vừa chịu sự lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp thống nhất của cấp ủy mà thường xuyên là ban thường vụ, thường trực cấp ủy, vừa thực hiện những quy định của Điều lệ Đảng, mà ở đó cấp ủy, ban thường vụ, thường trực cấp ủy đều phải tuân thủ. Nhưng trên thực tế, hầu như UBKT chỉ thực hiện được vai trò là cơ quan trực tiếp chịu sự chỉ đạo của ban thường vụ, thường trực cấp ủy cùng cấp nên hiệu lực, hiệu quả của công tác kiểm tra, giám sát bị hạn chế, thậm chí có nơi hoạt động của UBKT và đội ngũ cán bộ kiểm tra còn chịu “sức ép” của một số cá nhân trong thường vụ, thường trực cấp ủy, thậm chí còn xen vào những ý đồ cá nhân. Hơn thế nữa, nhiều thành viên trong UBKT cũng lại chính là ủy viên của cấp ủy nên khi cần có ý kiến khác, cần đấu tranh với những vi phạm, tiêu cực, nhất là hành vi lạm quyền, lộng quyền, lợi dụng quyền lực của một số thành viên trong cấp ủy cùng cấp thì khó tránh khỏi sự nể nang, né tránh, mà trên thực tế việc kiểm tra cấp ủy viên cùng cấp khi có dấu hiệu vi phạm và giám sát bí thư, phó bí thư cấp ủy cấp mình ít hiệu lực và hiệu quả... Thực tế cho thấy, có trường hợp chủ nhiệm UBKT, thành viên UBKT có bản lĩnh, tính chiến đấu cao nhưng thực hiện chức trách, nhiệm vụ “trái với ý” thường vụ, thường trực cấp ủy, người đứng đầu cấp ủy thì có khi lại không trúng cử trong nhiệm kỳ tiếp theo hoặc bị điều động làm công tác khác. Đó là mặt hạn chế của mô hình UBKT hiện nay cần sớm có giải pháp khắc phục. Trên cơ sở nguyên tắc tập trung dân chủ, cần nghiên cứu đổi mới mô hình tổ chức UBKT, nhất là xử lý mối quan hệ giữa bảo đảm lãnh đạo, tập trung thống nhất và tôn trọng tính độc lập tương đối của UBKT các cấp, giữa tổ chức và hoạt động theo “trục dọc” và “trục ngang” hợp lý hơn.

Cần hợp nhất ba cơ quan thanh tra nhà nước, ban nội chính của cấp ủy và UBKT. Việc kiến nghị hợp nhất ba cơ quan dựa trên các căn cứ, như 1- Về lý luận: Vào cuối năm 1923, V.I.  Lê-nin đã phát hiện những hạn chế, bất cập, chồng chéo của các cơ quan đảng và bộ máy Chính quyền Xô-viết, nên đã tiến hành cải tổ bộ máy nhà nước và các cơ quan đảng, trước hết là ý tưởng hợp nhất Bộ dân ủy thanh tra công nông với Ban kiểm tra trung ương. V.I.  Lê-nin cho rằng việc hợp nhất sẽ có lợi cho cả hai: “Tôi cho rằng việc hợp nhất Bộ dân ủy thanh tra công nông với Ban kiểm tra trung ương như vậy sẽ có ích cho cả hai cơ quan đó”(4). Điều lệ Đảng do Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng ta (tháng 2-1951) cũng đã quy định: “Ban Kiểm tra Trung ương kiêm luôn cả Ban Thanh tra Chính phủ, có trách nhiệm kiểm tra cả trong quân đội”. Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị, đồng thời cũng là một bộ phận của hệ thống ấy. Trong điều kiện Đảng ta là Đảng Cộng sản duy nhất cầm quyền, thống nhất lãnh đạo công tác tổ chức cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ. Mặt khác, kỷ luật đảng không thay thế kỷ luật chính quyền, kỷ luật đoàn thể và pháp luật. Đảng viên giữ chức vụ trong Đảng, Nhà nước, đoàn thể nếu bị thi hành kỷ luật về Đảng thì phải xem xét, thi hành kỷ luật về mặt chính quyền, đoàn thể và ngược lại nếu bị xử lý kỷ luật về chính quyền, đoàn thể thì phải xem xét, thi hành kỷ luật về Đảng. Nếu vi phạm đến mức phải truy cứu trách nhiệm hình sự thì truy cứu, không để xử lý nội bộ. Đảng ta cũng đã quy định rõ: “Đảng viên bị hình phạt từ cải tạo không giam giữ trở lên thì phải khai trừ ra khỏi Đảng”... 

Đối với nước ta, đảng viên vừa là thành viên của tổ chức đảng, vừa là cán bộ, công nhân viên của cơ quan nhà nước và thành viên các tổ chức kinh tế, chính trị - xã hội khác. Trong điều kiện xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, phần lớn khi đảng viên vi phạm kỷ luật đảng thường gắn liền với vi phạm về pháp luật, nhất là lộng quyền, lạm quyền, lợi dụng quyền lực trong công tác cán bộ và lĩnh vực kinh tế. Đồng thời, trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, thì mọi người đều bình đẳng trước pháp luật. Nhưng khi vi phạm đảng viên vừa chịu sự kiểm tra và thi hành kỷ luật của tổ chức đảng, vừa chịu sự thanh tra và thi hành kỷ luật của tổ chức nhà nước hoặc đoàn thể. Như vậy, có hai tổ chức cùng xem xét trách nhiệm của một đảng viên, nhưng nhiều trường hợp lại có những kết luận khác nhau... nên khó xử lý dứt điểm. 2- Về thực tiễn: Xuất phát từ nhiệm vụ chính trị trong giai đoạn cách mạng mới và tình hình đất nước hiện nay, đặc biệt là nguy cơ tha hóa quyền lực, tham nhũng, suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, đòi hỏi phải có một cơ quan của Đảng giữ vị trí trung tâm điều phối, thống nhất các lực lượng làm công tác phòng, chống sự tha hóa quyền lực, tham nhũng, “tư duy nhiệm kỳ”, “lợi ích nhóm”,... làm cho Đảng thực sự vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức; hoàn thiện phương thức lãnh đạo và chế độ công tác, phối hợp với các cơ quan pháp luật xem xét và xử lý các vụ án, nhất là các vụ án lớn về lợi dụng chức vụ, quyền lực để trục lợi có liên quan đến cán bộ, đảng viên của Đảng. Tuy nhiên, trong hoạt động của ba cơ quan riêng biệt như vừa qua đã xuất hiện những bất cập, hạn chế và trùng chéo, nên trong thực tế những hành vi vi phạm của tổ chức đảng, đảng viên, khó có thể phân biệt rạch ròi phạm vi kiểm tra của UBKT và phạm vi thanh tra của thanh tra, nội chính; do đó trong hoạt động của ba cơ quan này không thể tránh khỏi bất cập, trùng chéo. Trường hợp cùng một đối tượng và cùng một vi phạm nhưng lại có ba tổ chức khác nhau là UBKT và thanh tra, nội chính cùng tiến hành xem xét, kết luận không giống nhau, gây khó khăn cho quá trình xử lý vi phạm. Chính điều này dẫn đến việc kỷ luật đảng và kỷ luật chính quyền, đoàn thể nhiều khi không kịp thời, đồng bộ với nhau; đồng thời, chính sự kiểm tra và thanh tra, nội chính trùng chéo cũng làm tốn kém thời gian, công sức, kinh phí, thậm chí gây ra tâm lý “chán nản” của đối tượng được kiểm tra, thanh tra. Có nhiều vụ, việc UBKT phải chờ kết luận của Thanh tra Nhà nước mới tiến hành kiểm tra, xem xét, xử lý trách nhiệm của đảng viên và khi UBKT xem xét lại phải đi thẩm tra, xác minh lại từng vụ, việc, khi đó đảng viên được xem xét mới có báo cáo giải trình, thậm chí có trường hợp không đồng ý với kết luận hoặc một số nội dung kết luận của thanh tra. Điều đó vừa gây tốn kém thời gian, tiền của, vừa tạo tâm lý nặng nề cho cán bộ, đảng viên, làm cho hiệu lực, hiệu quả của công tác kiểm tra, thanh tra, nội chính chưa đạt được kết quả cao.

Hiện nay, sự phối hợp giữa UBKT và Thanh tra Nhà nước còn thiếu chặt chẽ, chưa bảo đảm tính hiệu lực, hiệu quả trong hoạt động thực tiễn, từ cấp tỉnh trở xuống đang cơ cấu chánh thanh tra hoặc phó chánh thanh tra nhà nước là ủy viên kiêm chức của UBKT, nhưng sự phối hợp vẫn không mang lại hiệu quả thiết thực. Trong hoạt động đã có nhiều trường hợp UBKT và Thanh tra Nhà nước có ý kiến khác nhau và không được giải quyết kịp thời. Do đó, nhiều vụ, việc đã bị kéo dài, giải quyết không dứt điểm, chưa đáp ứng kịp thời yêu cầu công tác cán bộ của Đảng, thậm chí gây hậu quả xấu và bất bình trong cơ quan nhà nước và nhân dân. Việc sáp nhập các cơ quan trên là phù hợp với tinh thần Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6 khóa XII của Đảng, về “Một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả”.

Thời gian tới, để tinh gọn bộ máy, bảo đảm hiệu lực, hiệu quả và chất lượng của hoạt động thanh tra, nội chính và kiểm tra cần phải hợp nhất ba cơ quan thành ủy ban kiểm tra - kỷ luật của Đảng. Nhưng để hợp nhất và đi vào hoạt động, Bộ Chính trị cần trực tiếp chỉ đạo Ủy ban Kiểm tra Trung ương, Thanh tra Chính phủ, Ban Nội chính Trung ương, Ban Tổ chức Trung ương, Ban Cán sự đảng Chính phủ và các cơ quan có liên quan xây dựng đề án cụ thể về ủy ban kiểm tra - kỷ luật, từ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, đến cơ cấu số lượng, chất lượng, chức danh thành viên UBKT, mô hình tổ chức bộ máy, đội ngũ cán bộ và cơ chế hoạt động, chế độ chính sách đãi ngộ sau khi hợp nhất và có thể thí điểm trước khi thực hiện trong toàn hệ thống chính trị,... Thực hiện được mô hình trên đòi hỏi phải có quyết tâm chính trị cao, là bước đột phá trong đổi mới, hoàn thiện mô hình UBKT các cấp và là cơ sở để tăng thẩm quyền, trách nhiệm cho UBKT các cấp gắn với việc đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng./.

----------

(1) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tr. 84
(2) V.I. Lê-nin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Mát-xcơ-va, 1977, t. 41, tr. 348
(3) V.I. Lê-nin: Toàn tập, Sđd, t. 45, tr. 440
(4) V.I. Lê-nin: Toàn tập, Sđd, t. 45, tr. 436