TCCS - Hai mươi năm qua, xuất - nhập khẩu đã trở thành động lực quan trọng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, góp phần không nhỏ để duy trì tốc độ tăng trưởng trung bình 7,3%/năm. Năm 2009, trong bối cảnh khủng hoảng tài chính - kinh tế toàn cầu, nền kinh tế nước ta đang đứng trước nhiều khó khăn, trong đó có nguy cơ đối mặt với sự suy giảm xuất - nhập khẩu. Để có thể vượt qua khủng hoảng, điều thiết yếu là phải duy trì được mức thâm hụt thương mại thấp, giải quyết công ăn việc làm cho người lao động, đặc biệt là khu vực sản xuất chuyên xuất khẩu, đồng thời tìm cách khuyến khích sản xuất và tiêu dùng trong nước.

Tình hình xuất - nhập khẩu Việt Nam thời gian qua

Từ những năm đầu thập kỷ 90 của thế kỷ XX, với những tác động tích cực từ chính sách đổi mới kinh tế của Đảng và Nhà nước theo hướng thị trường, mở cửa và hội nhập kinh tế, năng lực sản xuất của nền kinh tế đã được giải phóng, lực lượng sản xuất trong nước phát triển mạnh mẽ. Cơ cấu sản xuất chuyển dịch theo hướng tích cực, dần dần từ sản xuất nhằm thay thế hàng nhập khẩu sang sản xuất nhằm mục đích xuất khẩu. Sản xuất hàng xuất khẩu đã có sự chuyển biến tích cực theo hướng tăng các mặt hàng chế biến, giảm tỷ trọng các sản phẩm thô, đa dạng hóa chủng loại sản phẩm hàng hóa. Hàng hóa nhập khẩu chủ yếu là tư liệu sản xuất phục vụ sản xuất trong nước và xuất khẩu. Thị trường xuất - nhập khẩu cũng tăng trưởng nhanh theo hướng đa dạng hóa và chuyển dần từ giao dịch gián tiếp thông qua các thị trường xuất - nhập khẩu trung chuyển như Xin-ga-po sang giao dịch trực tiếp tại các thị trường Mỹ, châu Âu và Nhật Bản. Việt Nam cũng trở thành nước xuất khẩu lớn nhất, nhì thế giới về các mặt hàng như gạo, tiêu, điều, cà phê,...

Việt Nam đã từng bước hội nhập vào nền kinh tế khu vực và toàn cầu với việc gia nhập ASEAN (năm 1995), ASEM (năm 1996), APEC (năm 1998) và đặc biệt là WTO (năm 2006). Thị trường xuất - nhập khẩu của Việt Nam được mở rộng nhưng áp lực cạnh tranh cũng ngày càng lớn. Các doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu đã từng bước đầu tư chiều sâu để hạ giá thành, nâng cao chất lượng sản phẩm hàng hóa, đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu chất lượng của những thị trường nhập khẩu khó tính nhất như EU, Nhật Bản, Mỹ. Bên cạnh đó, đầu tư trực tiếp nước ngoài cũng góp phần quan trọng trong việc nâng cao trình độ công nghệ và cung cấp vốn cho việc phát triển mở rộng sản xuất, kinh doanh xuất - nhập khẩu.

Mức độ phụ thuộc vào kinh tế thế giới của nền kinh tế nước ta

Tốc độ tăng trưởng kinh tế ấn tượng của các nước Đông Á và ASEAN trong hơn nửa thế kỷ vừa qua có nguyên nhân rất lớn từ chính sách sản xuất nhằm mục tiêu xuất khẩu. Xuất khẩu hàng hóa là động lực thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế của các nước này. Tuy nhiên, điều này cũng làm cho nền kinh tế các nước ASEAN dễ bị tổn thương và phụ thuộc vào biến động của chu kỳ kinh tế thế giới, đặc biệt là phụ thuộc vào các thị trường xuất khẩu chủ lực như Mỹ, châu Âu và Nhật Bản.

Với đường lối mở cửa kinh tế, xuất khẩu đã ngày càng trở thành động lực quan trọng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế ở nước ta. Tốc độ tăng trưởng xuất khẩu trung bình của Việt Nam đạt 24,1%/năm trong suốt 20 năm qua là nhân tố quan trọng giúp duy trì tốc độ tăng trưởng cao. Khác với một số nước ASEAN như Xin-ga-po, Ma-lai-xi-a và Thái Lan đã trải qua thời kỳ tích tụ tư bản nhằm tạo lập vốn, Việt Nam đang ở giai đoạn nước rút nhằm tạo lập vốn cho nền kinh tế với tốc độ đầu tư không ngừng tăng lên. Nếu năm 1990, tỷ lệ đầu tư của nền kinh tế trong GDP là 12,6%/năm, thì năm 1995 đạt 27,1%, năm 2000 đạt 29,6%, năm 2005 đạt 35,6%, và kỷ lục đạt 41,7% GDP năm 2007 (Xem bảng 1). Chính vì vậy, trước khi Việt Nam có thể chuyển sang giai đoạn xuất siêu như các nước khác, chúng ta không thể không trải qua thời kỳ tích lũy vốn, thu hút đầu tư trong và ngoài nước kèm theo nhu cầu nhập khẩu tăng cao. Trong giai đoạn 1989 - 2008, tốc độ tăng trưởng nhập khẩu hằng năm, mặc dù thấp hơn xuất khẩu, vẫn duy trì ở mức cao, trung bình đạt 19,9%.

Nếu lấy tổng kim ngạch xuất - nhập khẩu so với GDP làm thước đo về mức độ hội nhập và phụ thuộc vào nền kinh tế thế giới, thì Việt Nam là một trong những nước có mức độ hội nhập kinh tế quốc tế cao nhất so với các nước trong ASEAN cũng như trên thế giới. Nếu như năm 1990, tổng kim ngạch xuất khẩu của nước ta so với GDP là 36%, thì đến năm 2007 con số này là 76,8% GDP. Cũng trong thời kỳ này, tổng kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam so với GDP tăng từ 45,3% lên 90,2% GDP. So với các nước ASEAN và Trung Quốc, mức độ hội nhập và phụ thuộc của nền kinh tế Việt Nam vào nền kinh tế thế giới đo bằng tổng kim ngạch xuất - nhập khẩu đã tăng từ 97% GDP (năm 1998) lên 167% (năm 2007), với tốc độ tăng trưởng thương mại nhanh nhất so với các nước trong khu vực như In-đô-nê-xi-a, Phi-lip-pin, Thái Lan và Trung Quốc. Điều này cũng có nghĩa nền kinh tế nước ta càng gặp nhiều khó khăn hơn trong thời kỳ khủng hoảng kinh tế toàn cầu.

Tác động của khủng hoảng kinh tế toàn cầu tới hoạt động xuất - nhập khẩu và tăng trưởng kinh tế của Việt Nam

Khủng hoảng cho vay thế chấp dưới chuẩn lan rộng ở Mỹ kể từ giữa năm 2007 đã dẫn tới tình trạng suy thoái kinh tế toàn cầu hiện nay. Năm 2008, nền kinh tế thế giới và trong nước có nhiều biến động vô cùng phức tạp. Giá dầu thô, nhiều loại nguyên liệu, thực phẩm và các loại hàng hóa khác trên thị trường thế giới tăng mạnh trong những tháng đầu năm khiến cho lạm phát xảy ra tại hầu khắp các nước trên thế giới. Đến cuối năm, giá cả các loại hàng hóa và nhiên liệu lại sụt giảm mạnh do tác động của suy thoái kinh tế toàn cầu. Tác động của khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu đã ảnh hưởng trực tiếp tới hoạt động xuất - nhập khẩu của Việt Nam trong năm 2008.

Đặc biệt, khuynh hướng suy giảm kim ngạch xuất - nhập khẩu đã trở nên rõ nét ngay từ đầu năm 2009, đặt ra vấn đề cấp bách cho Chính phủ trong điều hành chính sách kinh tế vĩ mô nhằm bảo đảm tăng trưởng kinh tế và an sinh xã hội. Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, kim ngạch hàng hóa xuất khẩu tháng 1-2009 ước tính đạt 3,8 tỉ USD, giảm 18,6% so với tháng 12-2008 và giảm 24,2% so với cùng kỳ năm trước. Kim ngạch hàng hóa nhập khẩu tháng 1-2009 ước tính đạt 4,1 tỉ USD, giảm 27,6% so với tháng trước đó và giảm 44,8% so với cùng kỳ năm 2008. Do tốc độ giảm của kim ngạch hàng hóa nhập khẩu nhanh hơn tốc độ giảm của kim ngạch hàng hóa xuất khẩu nên mức nhập siêu tháng 1-2009 đã giảm nhiều, ước tính 300 triệu USD, bằng 7,9% tổng kim ngạch hàng hóa xuất khẩu, thấp hơn nhiều so với mức nhập siêu 2,4 tỉ USD của cùng kỳ năm trước.

Để có thể đưa ra giải pháp nhằm điều hành hoạt động sản xuất, kinh doanh xuất - nhập khẩu và ổn định kinh tế vĩ mô, chúng ta cần phải chỉ ra tác động của suy giảm hoạt động kinh doanh xuất - nhập khẩu do tác động của kinh tế thế giới tới GDP của Việt Nam. Theo mô hình tổng cầu của Keynes, tổng cầu của nền kinh tế đo bằng tổng sản phẩm quốc nội GDP, được tính trên cơ sở tổng tiêu dùng tư nhân, tiêu dùng chính phủ, đầu tư, và xuất khẩu ròng (đo bằng tổng kim ngạch xuất khẩu trừ đi tổng kim ngạch nhập khẩu). Theo phương pháp này, cơ cấu GDP của Việt Nam đã có chuyển biến khá tích cực từ năm 1990 tới năm 2000 và ổn định cho tới năm 2006, trước khi gặp những biến động mạnh trong năm 2007, sau khi Việt Nam gia nhập WTO. Cơ cấu chi tiêu của khu vực tư nhân và của Chính phủ đã có chuyển biến tích cực theo hướng giảm chi tiêu và tăng tích lũy để đầu tư tạo vốn.

Bảng 1: Cơ cấu tổng sản phẩm quốc nội tính theo % GDP

 

1990

1995

2000

2005

2006

2007

Tiêu dùng tư nhân

84,8

73,6

66,5

63,5

63,3

64,9

Tiêu dùng Chính phủ

12,3

8,2

6,4

6,2

6,0

6,1

Đầu tư (tạo lập vốn)

12,6

27,1

29,6

35,6

36,8

41,7

Xuất khẩu ròng

-9,2

-9,1

-2,5

-4,2

-5,0

-13,4

Nguồn: ADB, Tổng cục Thống kê

Trong giai đoạn trước năm 2007, cơ cấu GDP đã duy trì ở mức tích cực với tốc độ tạo lập vốn đầu tư duy trì trong khoảng 35% - 36%, tạo điều kiện thúc đẩy tăng trưởng trong trung và dài hạn. Trong năm 2007, với việc Việt Nam gia nhập WTO, nguồn vốn đầu tư trực tiếp và gián tiếp đổ vào nước ta đã kéo theo việc gia tăng thâm hụt thương mại, đặc biệt trong hai quý cuối năm 2007. Kết quả là, thâm hụt thương mại năm 2007 lên tới 14,1 tỉ USD, chiếm khoảng 13,4% GDP. Tuy nhiên, phần này được bù đắp hoàn toàn bằng 8 tỉ USD vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, và 6,24 tỉ vốn đầu tư gián tiếp, và lượng kiều hối đạt kỷ lục 6,18 tỉ USD. Khuynh hướng này tiếp tục kéo dài sang năm 2008, cùng với việc biến động giá tăng của hầu hết các hàng hóa nhập khẩu đầu vào sản xuất ở Việt Nam khiến thâm hụt thương mại lên tới hơn 18 tỉ USD, đạt mức kỷ lục và chiếm khoảng 16,1% GDP. Tuy nhiên, năm 2008 cũng đánh dấu một bước ngoặt lịch sử trong huy động vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài với tổng số vốn đăng ký đạt mức kỷ lục 64 tỉ USD, và vốn thực hiện đạt 11,5 tỉ USD.

Phân tích cơ cấu thị trường xuất khẩu của Việt Nam có thể nhận thấy, trong năm 2008, sáu thị trường xuất khẩu chính là Mỹ, EU, ASEAN, Nhật Bản, Trung Quốc và Ô-xtrây-li-a đã chiếm tới 80% tổng khối lượng hàng hóa xuất khẩu. Bản thân nền kinh tế các nước ASEAN và Trung Quốc cũng phụ thuộc rất lớn vào các nền kinh tế còn lại, nên suy thoái kinh tế của Mỹ, EU và Nhật Bản sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng tới tình hình xuất khẩu của Việt Nam trong năm 2009. Các mặt hàng chủ lực xuất khẩu vào thị trường Mỹ là giầy dép, hàng dệt may và các sản phẩm về gỗ; vào EU là giầy dép, hàng dệt may và hải sản; vào ASEAN là dầu thô và gạo; vào Nhật Bản và Ô-xtrây-li-a là dầu thô; vào Trung Quốc là cao su, sẽ chịu nhiều ảnh hưởng không nhỏ.

Hàng nhập khẩu của Việt Nam cũng tập trung cao ở các thị trường chính như ASEAN, Trung Quốc, Nhật Bản, EU, Mỹ và ấn Độ. Các thị trường này chiếm tới 66% tổng kim ngạch nhập khẩu. Các mặt hàng nhập khẩu chủ yếu là máy móc thiết bị phụ tùng, ngoài ra còn nhập xăng dầu các loại, máy vi tính và linh kiện, chất dẻo nguyên liệu từ các nước ASEAN; sắt thép và vải từ Trung Quốc; sắt thép từ Nhật Bản. Trong thương mại nội vùng, năng lực sản xuất hàng xuất khẩu của Việt Nam còn kém hơn rõ rệt so với các đối thủ cạnh tranh. So sánh về quy mô, Việt Nam luôn ở trạng thái nhập siêu so với các nước ASEAN và Trung Quốc. Hơn nữa, hàm lượng giá trị sản xuất gia tăng trong hàng hóa nhập khẩu từ các nước ASEAN, Trung Quốc cao hơn hẳn so với hàng hóa chúng ta xuất khẩu sang ASEAN và Trung Quốc. Hàng hóa nhập khẩu từ các nước ASEAN và Trung Quốc chủ yếu là máy móc thiết bị và nguyên liệu đầu vào cho sản xuất. Suy thoái kinh tế toàn cầu, kéo theo sụt giảm kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang các nước, vì vậy cũng làm giảm nhu cầu đầu vào phục vụ xuất khẩu, vì vậy làm giảm nhu cầu nhập khẩu của Việt Nam.

Kiến nghị, giải pháp điều hành xuất - nhập khẩu và ổn định kinh tế vĩ mô

Phân tích tác động của hoạt động xuất nhập khẩu tới GDP cho thấy, hoạt động sản xuất, kinh doanh xuất - nhập khẩu đóng góp một phần quan trọng vào GDP ở Việt Nam. Năm 2007, xuất khẩu đạt 76,8% GDP, nhập khẩu đạt 90,2% GDP. Nếu xét trên mô hình tổng cầu, tăng xuất khẩu sẽ làm tăng GDP, nhưng đồng thời cũng kéo theo tăng nhập khẩu phục vụ xuất khẩu làm giảm GDP. Trên thực tế, chúng ta luôn ở trong tình trạng nhập siêu, nên phần đóng góp trực tiếp của khu vực xuất - nhập khẩu vào GDP là âm. Tuy nhiên, xét tỷ trọng hàng hóa nhập khẩu của Việt Nam có thể nhận thấy, phần lớn hàng nhập khẩu là để phục vụ sản xuất và được bù đắp bởi chi đầu tư. Bên cạnh đó, sản xuất hàng xuất khẩu tạo ra công ăn việc làm, giải quyết thu nhập cho một bộ phận lớn dân số và gián tiếp đóng góp vào GDP thông qua việc tiêu dùng của bộ phận dân số này. Hơn nữa, khu vực sản xuất trong nước còn thu được lợi ích lan tỏa nhờ vào việc chuyển giao công nghệ thông qua đầu tư của nước ngoài và nâng cao năng lực cạnh tranh của khu vực này. Đồng thời, thông qua áp lực cạnh tranh từ các doanh nghiệp nước ngoài và khu vực xuất khẩu năng động, năng lực cạnh tranh của khu vực sản xuất trong nước cũng được cải thiện.

Cho đến nay, nền kinh tế thế giới chưa có dấu hiệu hồi phục. Nếu suy thoái kinh tế toàn cầu kéo dài, hoạt động thương mại và đầu tư quốc tế của Việt Nam, đặc biệt là hoạt động xuất khẩu sẽ bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Để giảm tác động tiêu cực của cuộc khủng hoảng đối với tốc độ tăng trưởng kinh tế, cần thực hiện các biện pháp hạn chế nhập khẩu tạm thời và thúc đẩy xuất khẩu nhằm mục đích giảm tác động trực tiếp của thâm hụt thương mại tới GDP. Để thực hiện được điều này, cần phối hợp đồng loạt các biện pháp, chính sách sau:

1 - Chính sách tỷ giá: Trong thời gian qua, Chính phủ đã điều hành chính sách tỷ giá theo hướng tích cực: mở rộng biên độ dao động

lên ± 5% và cho phép tỷ giá VND/USD biến động theo hướng phù hợp với thực trạng cung, cầu ngoại hối trên thị trường. Trong thời gian tới, Chính phủ cần tiếp tục điều chỉnh phá giá dần dần tiền đồng, tránh gây sốc, nhưng bảo đảm theo khuynh hướng tăng/giảm giá trị của đồng USD trên thị trường thế giới. Bên cạnh đó, việc điều chỉnh tỷ giá cần cân nhắc theo một giỏ tiền tệ các ngoại tệ mạnh, tự do chuyển đổi (USD, EUR, JPY, GBP) theo tỷ trọng thương mại của Việt Nam với các nước/khối nước liên quan.

2 - Chính sách hỗ trợ tín dụng xuất khẩu: Nguồn kinh phí của gói kích cầu 1 tỉ USD cần được sử dụng đúng nơi, đúng chỗ nhằm hỗ trợ cho các doanh nghiệp xuất khẩu. Ví dụ, chỉ tài trợ cho các khoản tín dụng liên quan trực tiếp tới xuất khẩu: Cho phép doanh nghiệp xuất khẩu chiết khấu các loại hối phiếu thanh toán trả chậm, hoặc cấp tín dụng ngay cho các doanh nghiệp có thể chứng minh đã hoàn thành việc giao hàng và đang làm thủ tục thanh toán trên cơ sở bảo đảm thanh toán bằng chuyển giao chứng từ sở hữu hàng hóa cho ngân hàng. Chính phủ có thể bảo lãnh các khoản thanh toán này.

3 - Chính sách hỗ trợ chi phí xuất khẩu: Hỗ trợ cho các doanh nghiệp xuất khẩu để giảm các loại chi phí liên quan tới xuất khẩu như chi phí tại cảng biển, sân bay và chi phí vận tải; giảm tối đa thủ tục hành chính gây phiền hà cho doanh nghiệp xuất - nhập khẩu (có thể tài trợ chi phí cho doanh nghiệp xuất - nhập khẩu để thực hiện các thủ tục này được thuận tiện, thông qua bộ máy hành chính nhà nước phục vụ xuất khẩu như thuế, hải quan).

4 - Đa dạng hóa cơ cấu thị trường xuất - nhập khẩu: Cơ cấu thị trường xuất - nhập khẩu của nước ta cho thấy, thị trường xuất - nhập khẩu của Việt Nam tập trung cao độ vào một số thị trường trọng điểm đang chịu ảnh hưởng của cơn bão khủng hoảng tài chính thế giới. Do vậy, cần huy động các cơ quan ngoại giao và mạng lưới doanh nghiệp Việt Nam trên toàn thế giới để phát triển, mở rộng thị trường mới như Trung Đông, châu Phi, châu Đại Dương và Mỹ La-tinh, đồng thời khôi phục lại những thị trường cũ như Đông Âu và Cộng đồng các quốc gia độc lập...

5 - Cải thiện cơ cấu mặt hàng xuất - nhập khẩu: Việc cải thiện cơ cấu mặt hàng xuất - nhập khẩu không thể thực hiện trong thời gian ngắn. Tuy nhiên, cần xây dựng lộ trình cụ thể nhằm nâng cao chất lượng hàng hóa sản xuất trong nước, đặc biệt là các sản phẩm xuất khẩu truyền thống, đồng thời tìm thị trường cho các sản phẩm xuất khẩu mới. Hàng hóa nhập khẩu cần tiếp tục điều chỉnh theo hướng giảm tỷ trọng hàng hóa nhập khẩu thành phẩm, tăng tỷ trọng nhập khẩu nguyên, nhiên, vật liệu thô.

6 - Khai thác thị trường trong nước: Cần khai thác tối đa thị trường trong nước để giảm quy mô nhập khẩu, nhằm giảm mức độ phụ thuộc của Việt Nam vào các thị trường nguyên, nhiên, vật liệu đối với các nước trong khu vực. Nghiên cứu, điều chỉnh công nghệ, nâng cao phần giá trị gia tăng sản xuất trong nước thông qua việc khai thác các nguồn nguyên, nhiên, vật liệu sẵn có trong nước. Các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh xuất khẩu, đặc biệt là dệt may, giày dép, thiết bị điện tử đã đáp ứng được nhu cầu của các thị trường khó tính như Mỹ, châu Âu, Nhật Bản, cần nỗ lực khai thác thị trường nội địa để duy trì quy mô hoạt động trong thời kỳ khó khăn, đồng thời đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của người dân trong nước, giảm áp lực nhập khẩu hàng tiêu dùng, góp phần cân bằng cán cân thương mại, nhất là hỗ trợ cho các nhà sản xuất lúc thị trường xuất khẩu có biến động xấu.

7 - Chính sách thưởng xuất khẩu và giảm thuế cho các doanh nghiệp xuất khẩu: Có cơ chế thưởng xuất khẩu xứng đáng, đồng thời giảm thuế thu nhập cho các doanh nghiệp xuất khẩu, đặc biệt là các doanh nghiệp giải quyết nhiều công ăn việc làm cho người lao động.

8 - Các chính sách tài khóa khác: Để giảm tác động tiêu cực của suy giảm sản xuất xuất khẩu, đặc biệt là vấn đề công ăn việc làm và thu nhập cho công nhân sản xuất hàng xuất khẩu, Chính phủ cần nghiên cứu chế độ trợ cấp thất nghiệp cho công nhân của các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh xuất khẩu bị mất việc làm, song song với các biện pháp hỗ trợ tạo công ăn việc làm cho công nhân mất việc trên cả nước nhằm tránh vòng xoáy suy thoái kinh tế - thất nghiệp, không có thu nhập, giảm tiêu dùng, buộc doanh nghiệp phải cắt giảm sản xuất và sa thải công nhân dẫn tới thất nghiệp trầm trọng hơn.

9 - Chính sách tiền tệ: Cần nới lỏng chính sách tiền tệ một cách từ từ, nhằm tạo thanh khoản và huy động nguồn lực cho chính sách tài khóa của Chính phủ. Tuy nhiên, việc nới lỏng chính sách tiền tệ cần được tiến hành thận trọng trên cơ sở giám sát chặt chẽ tỷ lệ lạm phát và thực hiện nghiêm túc các biện pháp giám sát cẩn trọng, minh bạch trong hoạt động tín dụng của ngân hàng.

Trong giai đoạn 1990 - 1995, xuất khẩu của nước ta chỉ đạt trung bình 32,9% GDP, và nhập khẩu đạt trung bình 40,5% GDP, nền kinh tế Việt Nam vẫn duy trì được tốc độ tăng trưởng kinh tế cao ở mức trung bình 7,7%/năm. Vì vậy, khi chúng ta duy trì được mức thâm hụt thương mại thấp, giải quyết được vấn đề công ăn việc làm cho khu vực sản xuất chuyên xuất khẩu, đồng thời các giải pháp đồng bộ của Chính phủ khôi phục được niềm tin của công chúng, khuyến khích được sản xuất và tiêu dùng trong nước, chắc chắn trong thời gian tới nền kinh tế nước ta sẽ tiếp tục tăng trưởng và vượt qua cuộc khủng hoảng toàn cầu hiện nay./.