Trong giai đoạn hiện nay, văn hóa và di sản văn hóa được coi vừa là yếu tố vừa là công cụ để phát triển kinh tế - xã hội. Tại nhiều quốc gia đã thành công trong việc lấy di sản làm trọng tâm trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội địa phương.

Đại hội XIII của Đảng nêu rõ 12 định hướng phát triển đất nước 10 năm tới, trong đó có định hướng: Phát triển con người toàn diện và xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc để văn hóa thực sự trở thành sức mạnh nội sinh, động lực phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc. Tăng cường đầu tư cho phát triển sự nghiệp văn hóa. Xây dựng, phát triển, tạo môi trường và điều kiện xã hội thuận lợi nhất để khơi dậy truyền thống yêu nước, niềm tự hào dân tộc, niềm tin, khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, tài năng trí tuệ, phẩm chất của con người Việt Nam là trung tâm, mục tiêu và động lực phát triển quan trọng của đất nước.

Để thực hiện có hiệu quả định hướng nêu trên cần phải giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa văn hóa và phát triển, đặc biệt phải tạo ra sự đồng bộ giữa các mặt hoạt động trong đời sống xã hội: chính trị, kinh tế, xã hội và văn hóa. Do đó, cần làm rõ quan điểm tiếp cận và nội hàm của các khái niệm khoa học, mối quan hệ giữa văn hóa và phát triển, di sản văn hóa với tư cách là “nguồn vốn” đóng góp cho phát triển.

Một số quan điểm tiếp cận văn hóa và di sản văn hóa

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa ra định nghĩa rất minh triết về văn hóa: Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn hóa, nghệ thuật, những công cụ sinh hoạt hàng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa. Văn hóa là tổng hợp các phương thức sinh hoạt cũng như biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm đáp ứng nhu cầu cuộc sống và đòi hỏi của sự sinh tồn.

Theo định nghĩa của UNESCO, văn hóa là tập hợp các đặc trưng tiêu biểu về tinh thần, vật chất, tri thức và cảm xúc của xã hội hoặc một nhóm người trong xã hội; văn hóa không chỉ bao gồm văn học và nghệ thuật, mà còn cả phong cách sống, phương thức chung sống, các hệ giá trị, truyền thống và niềm tin.

Từ hai định nghĩa nêu trên ta thấy, có 4 đặc trưng cơ bản về văn hóa là: Văn hóa là sản phẩm sáng tạo của con người; văn hóa có mặt ở tất cả các lĩnh vực hoạt động trong đời sống xã hội của con người (cả trong chính trị, kinh tế, xã hội…); văn hóa trước hết phải là các giá trị hay hệ giá trị văn hóa (cá nhân, gia đình, dòng họ, làng xóm, quốc gia dân tộc và toàn nhân loại); con người là mục tiêu, là chủ thể, vừa là người tổ chức và thực hiện các quá trình hoạt động xã hội và cũng chính là các quá trình phát triển.

Muốn hiểu sâu về văn hóa, chúng ta cần bắt đầu từ khái niệm giá trị văn hóa. Giá trị văn hóa được coi là yếu tố cốt lõi của văn hóa, đó là một hình thái của đời sống tinh thần, được phản ánh và kết tinh trong đời sống văn hóa của con người, đóng vai trò điều tiết hành vi và định hướng sự phát triển của con người hướng tới các giá trị phổ quát nhất là chân - thiện - mỹ, góp phần tạo cơ sở cho phát triển bền vững của các quốc gia - dân tộc trên thế giới.

Giá trị văn hóa hay “vốn văn hóa” có 3 đặc trưng cơ bản: 1- Có khả năng điều chỉnh hành vi cá nhân, góp phần bồi dưỡng, xây dựng nhân cách con người, tức là tạo ra nguồn nhân lực có chất lượng trí tuệ cao, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội; 2- Giá trị văn hóa là thành tố cấu trúc môi trường xã hội lành mạnh (tạo sự ổn định xã hội) - yếu tố không thể thiếu trong phát triển bền vững; 3- Giá trị văn hóa có khả năng “góp vốn” làm gia tăng giá trị kinh tế của một số sản phẩm/vật phẩm văn hóa với tư cách là “loại hàng hóa đặc thù”, một sản phẩm có hàm lượng trí tuệ càng cao thì giá trị hàng hóa/giá trị thương phẩm càng cao.

Các nhà khoa học tương đối đồng thuận trong việc xác định 4 yếu tố cấu trúc quan trọng của văn hóa là: Các tri thức và kinh nghiệm do một dân tộc đã tích lũy được trong quá trình nhận thức và thích nghi với hoàn cảnh tự nhiên cũng như điều kiện lịch sử xã hội; sức sống, sức sáng tạo của một quốc gia dân tộc được hun đúc trong suốt chiều dài lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước; bản sắc văn hóa dân tộc thể hiện các khuynh hướng về những phẩm chất căn bản trong sáng tạo văn hóa; hệ giá trị văn hóa truyền thống của quốc gia dân tộc; bản lĩnh dân tộc thể hiện ở khả năng dám đối mặt và vượt qua các thách thức cam go trong lịch sử, là khát vọng phát triển phồn vinh, hạnh phúc.

Suy cho cùng, giá trị văn hóa cũng là “vốn văn hóa” có khả năng đóng góp to lớn vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.

Di sản văn hóa là sự thể hiện một cách cụ thể nhất, chân xác nhất, trực quan và hấp dẫn nhất về các giá trị văn hóa. Di sản văn hóa đòi hỏi phải được tiếp cận từ các mặt cơ bản sau đây:

Thứ nhất, di sản văn hóa là sản phẩm sáng tạo của con người, được lưu truyền, chọn lọc, tích hợp và được “chưng cất” qua nhiều thế hệ con người để trở thành tinh hóa văn hóa dân tộc.

Thứ hai, di sản văn hóa chỉ được bảo tồn lâu dài chừng nào nó còn có ích, cần thiết và phục vụ tốt nhất cho nhu cầu phát triển của con người, mặc khác, phải coi di sản văn hóa cũng là sản phẩm của hiện tại, được tạo ra bởi cảm nhận của con người hôm nay về giá trị của quá khứ, trong sự lo toan, trăn trở của nhân loại về hiện tại và tương lai. Sự quan tâm đó chủ yếu nhắm vào tính hữu ích của di sản văn hóa cho con người ở cả hiện tại và tương lai. Vậy tính hữu ích của di sản văn hóa cho con người sẽ làm cho nó trở nên có giá trị và có sức trường tồn qua nhiều thế hệ con người.

Thứ ba, di sản văn hóa có khả năng góp “vốn văn hóa” cho phát triển văn hóa bởi vì di sản văn hóa vốn đã hàm chứa/tích hợp trong nó nhiều mặt giá trị tiêu biểu như: giá trị lịch sử gắn với các sự kiện lịch sử tiêu biểu trong quá trình dựng nước và giữ nước, với các nhân vật lịch sử lỗi lạc và danh nhân văn hóa kiệt xuất của Việt Nam; giá trị kiến trúc - nghệ thuật biểu hiện qua các hợp thể/tổ hợp giữa hai yếu tố tự nhiên và nhân tạo (kiến trúc, điêu khắc, hội họa…); giá trị gắn với không gian văn hóa truyền thống - nơi thường xuyên diễn ra các nghi lễ, các sinh hoạt văn hóa cộng đồng (lễ hội truyền thống và các di sản văn hóa phi vật thể khác) có sức hấp dẫn và ảnh hưởng lan tỏa trong những không gian văn hóa rộng lớn của đất nước; giá trị gắn với tài nguyên du lịch không bao giờ cạn kiệt (nếu được bảo tồn bền vững), là phương tiện giao lưu văn hóa và đối thoại quốc tế vì hòa bình, khoan dung, hòa hợp và hòa giải trong phạm vi quốc gia dân tộc và cả nhân loại.

Thứ tư, từ góc nhìn kinh tế học di sản, ta thấy, di sản văn hóa ngoài giá trị văn hóa phi vật thể còn hàm chứa cả giá trị kinh tế có thể lượng hóa bằng các số liệu thống kê dưới dạng tài chính.

Kinh tế học di sản quan tâm chủ yếu tới “giá trị sử dụng”, tức là những lợi ích có thể thu được từ việc sử dụng và phát huy giá trị di sản văn hóa thông qua phát triển các ngành công nghiệp văn hóa, trong đó có ngành du lịch di sản. Nhà nghiên cứu Hà Hữu Nga đã khái quát 4 mặt giá trị kinh tế do các hoạt động bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa đóng góp cho xã hội là: lợi ích về tài chính; các đặc trưng thẩm mỹ; cải thiện sinh kế cũng như hình ảnh của cộng đồng; cơ hội sử dụng địa điểm di sản vào các mục đích sống, thương mại, du lịch, giải trí và các mục đích xã hội.

Qua những khái niệm và nội dung phân tích ở trên ta thấy, văn hóa luôn là nguồn lực cho phát triển và ngược lại phát triển phải thừa nhận văn hóa giữ vị trí trung tâm của phát triển, có vai trò điều tiết xã hội thông qua hành vi và nhận thức của cá nhân và cộng đồng xã hội. Chắc chắn, văn hóa không phải là “yếu tố ăn theo”, phụ thuộc vào kinh tế, ngược lại, văn hóa còn trực tiếp tham gia vào quá trình phát triển kinh tế. Văn hóa tham gia vào kinh tế thông qua hoạt động của con người, mà con người bao giờ cũng là 1 thực thể văn hóa đóng vai trò quyết định đối với các quá trình sản xuất của cải vật chất xã hội.

Sang thế kỷ XXI, cả thế giới đang thực hiện bước chuyển đổi mang tính đột phát chiến lược từ nền kinh tế khai thác thiên nhiên là chủ đạo sang nền kinh tế tri thức/nền kinh tế “khai thác chất xám”, dựa trên nền tảng trí tuệ của con người, trong đó phần giá trị của nguyên liệu sản xuất, tiền vốn và sức lao động cơ bắp ngày một giảm thiểu. Trong một nền kinh tế như thế, chỉ những quốc gia nào xây dựng được nền văn hóa tiến bộ, nền giáo dục tốt đủ sức trang bị cho nhân dân của mình những kiến thức văn hóa cần thiết và tương xứng với đòi hỏi của hiện tại và tương lai mới có khả năng phát triển vượt trội.

Mối quan hệ giữa văn hóa và phát triển

Thế kỷ XXI đang chứng kiến những sự thay đổi lớn trong môi trường. Cùng với những tiến bộ về khoa học - công nghệ, mang lại lợi ích cho loài người, đây cũng là giai đoạn chứng kiện sự suy thoái nghiêm trọng về môi trường, cạn kiệt tài nguyên, gia tăng khoảng cách về chất lượng cuộc sống của con người, xung đột và chiến tranh khu vực kéo dài, nghèo đói gia tăng, sự đồng nhất về văn hóa.

Những thay đổi này đã đặt nhiều quốc gia trước bài học, phát triển không đơn thuần với việc theo đuổi các mục tiêu vật chất và kinh tế mà ngày càng được nhìn nhận như một quá trình thay đổi không ngừng hướng tới sự cải thiện về điều kiện sống của con người. Phát triển kinh tế - cùng với phát triển môi trường, xã hội và văn hóa phải được coi là một phần của một tổng thể lớn hơn đó là phát triển bền vững (UNDP 1994).

Tại nhiều quốc gia, gần đây văn hóa đã chuyển sang vị trí trung tâm như một khía cạnh quan trọng của sự phát triển. Văn hóa là một trong các lĩnh vực nằm trong chương trình nghị sự không chỉ của Liên hợp quốc mà còn của nhiều tổ chức quốc tế hoạt động trong lĩnh vực phát triển, ngày càng khẳng định vai trò của văn hóa như một trụ cột của phát triển bền vững và thực hiện Chương trình Nghị sự 2030 của Liên hợp quốc, phát huy vai trò của văn hóa trong các chính sách phát triển tại cấp độ quốc gia, khu vực và quốc tế. Việc nhấn mạnh khả năng cộng sinh giữa văn hóa và phát triển có ý nghĩa sâu rộng và đưa ra một trong những thách thức lớn nhất đối với việc xem xét lại mô hình phát triển ở nhiều quốc gia.

Bảo tồn bền vững di sản văn hóa, tạo động lực mới phục vụ cho các mục tiêu phát triển đất nước

Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng đã xác định rất rõ định hướng phát triển đất nước giai đoạn 2021 - 2030 là tiếp tục đổi mới mạnh mẽ tư duy, xây dựng, hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển bền vững về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, môi trường…, tháo gỡ kịp thời những khó khăn, vướng mắc, khơi dậy mọi tiềm năng và nguồn lực, tạo động lực mới cho sự phát triển nhanh và bền vững của đất nước.

Theo tinh thần chủ đạo của các định hướng lớn đó, ngành văn hóa, thể thao và du lịch cũng phải đổi mới tư duy, nhận thức và hành động thực tế hướng tới việc bảo tồn bền vững di sản văn hóa, tạo động lực mới phục vụ các mục tiêu phát triển của đất nước, trong đó có mục tiêu xây dựng văn hóa và con người Việt Nam phát triển toàn diện.

Di sản văn hóa là biểu hiện vật chất cụ thể nhất về các mặt giá trị văn hóa, do đó muốn phát triển văn hóa tất yếu phải có những giải pháp đồng bộ để bảo tồn bền vững di sản văn hóa:

Một là, bảo tồn bền vững di sản văn hóa về mặt xã hội theo hướng tạo lập cơ sở pháp lý (hệ thống quy chuẩn pháp luật  mà hạt nhân là Luật Di sản văn hóa), cơ chế chính sách về quản lý để di sản văn hóa không bị tách biệt khỏi các mặt đời sống xã hội, đồng thời luôn được tôn trọng và có khả năng tồn tại ngay trong đời sống xã hội, hòa nhập vào không gian sinh thái - nhân văn - nơi di sản văn hóa được sáng tạo và hiện đang được kế thừa. Có thể hiểu, bảo tồn bền vững di sản văn hóa về mặt xã hội là phải biến di sản thành bộ phận hữu cơ trong đời sống xã hội, tạo điều kiện và cơ hội cho nhân dân được tiếp cận, hưởng thụ giá trị văn hóa do các thế hệ cha ông truyền lại.

Hai là, bảo tồn bền vững di sản văn hóa về mặt môi trường đặt ra yêu cầu phải có thái độ ứng xử có văn hóa, thực sự tôn trọng môi trường sinh thái - nhân văn như là một hợp phần, một yếu tố cấu thành giá trị di sản văn hóa. Do đó chúng ta buộc phải quan tâm tới việc duy trì sự bền chặt của một “hợp thể hữu cơ” giữa một bên là yếu tố thiên nhiên và một bên là các yếu tố nhân tạo (công trình kiến trúc, các tác phẩm điều khắc…) trong môi trường sinh thái nhân văn/không gian văn hóa của một di sản cụ thể. Mặc khác, có thể tận dụng, phát huy thế mạnh về mặt cảnh quan sinh thái làm gia tăng giá trị và sức hấp dẫn của di sản văn hóa.

Ba là, bảo tồn bền vững di sản văn hóa về mặt kinh tế theo hướng thừa nhận và khẳng định mối quan hệ tương hỗ giữa bảo tồn di sản văn hóa và phát triển kinh tế. Bảo tồn di sản văn hóa không cản trở phát triển kinh tế, ngược lại di sản văn hóa phải được bảo tồn như một nguồn lực, “nguồn vốn văn hóa” cho phát triển. Trong hoạt động bảo tồn di sản văn hóa cũng hàm chứa yếu tố kinh tế theo nghĩa bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa gắn liền với phát triển công nghiệp văn hóa, trong đó có ngành kinh tế tổng hợp là du lịch văn hóa. Nếu có sự phối hợp đồng bộ giữa bảo tồn di sản văn hóa và phát triển công nghiệp văn hóa chắc chắn sẽ tạo ra nguồn thu để tái đầu tư trở lại cho bảo tồn di sản văn hóa.

Bốn là, bảo tồn bền vững di sản văn hóa về mặt khoa học và công nghệ theo nghĩa vận dụng những thành tựu hiện đại nhất về khoa học kỹ thuật để triển khai các hoạt động bảo quản, tu bổ, tôn tạo di tích nhằm duy trì và kéo dài tuổi thọ các yếu tố vật chất/yếu tố nguyên gốc cấu thành giá trị di sản văn hóa. Đồng thời, dựa trên nền tảng công nghệ số để xây dựng kho dữ liệu khoa học về di sản văn hóa hay là số hóa di sản văn hóa làm cơ sở cho các hoạt động có liên quan trong lĩnh vực di sản văn hóa và du lịch, giúp cho cộng đồng có điều kiện tiếp cận và kết xuất nhanh nhất các số liệu, tri thức có liên quan tới di sản văn hóa.

Năm là, bảo tồn bền vững di sản văn hóa phải góp phần thực hiện các mục tiêu lớn là xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam phát triển toàn diện, hướng đến chân - thiện - mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học; xây dựng văn hóa thực sự trở thành nền tảng vững chắc cho xã hội; xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện.

Ở Việt Nam, thị trường văn hóa đang từng bước được hình thành và phát triển. Đó là không gian xã hội nơi diễn ra quá trình tương tác giữa bên cung và bên cầu, trong đó các sản phẩm, dịch vụ văn hóa được lưu thông và thực hiện tuân theo các quy luật thị trường. Ở đây, bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa gắn với phát triển du lịch bền vững cũng được nhìn nhận như quá trình “sản xuất văn hóa” - các đơn vị cung cấp các sản phẩm văn hóa dưới dạng hàng hóa, còn cộng đồng xã hội và du khách là người thụ hưởng, người tiêu dùng. Vì vậy rất cần có hệ thống văn bản pháp luật và cơ chế chính sách phù hợp cho việc thể nghiệm mô hình “hợp tác công tư trong lĩnh vực bảo tồn di sản văn hóa gắn với phát triển công nghiệp văn hóa, đặc biệt là du lịch bền vững.

Chúng ta cần nhận thức rõ vai trò và giá trị chân chính của nền kinh tế tư nhân để không nhầm lẫn giữa “công cụ”/phương tiện với mục tiêu phát triển. Kinh tế nhà nước và kinh tế tư nhân thực chất cũng chỉ là phương tiện để chúng ta đạt được mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Với tư cách là công cụ cho phát triển xã hội, kinh tế tư nhân phải được nâng đỡ, khuyến khích, cùng song hành và bình đẳng với kinh tế nhà nước. Việc lựa chọn cơ chế ưu tiên cho kinh tế nhà nước hay kinh tế tư nhân trong lĩnh vực hoạt động xã hội nào là tùy thuộc vào mức độ hiệu quả phát triển xã hội mà nền kinh tế đó mang lại. Thực tế phát triển đất nước trong những năm qua cho thấy, kinh tế tư nhân cũng có đóng góp quan trọng và thể hiện rõ ưu thế, như có khả năng phát triển mạnh mẽ nhờ có tính năng động và nhạy bén với cơ chế thị trường; năng lực quản lý nguồn vốn và khả năng thích ứng cao với kinh tế thị trường kể cả trong thị trường văn hóa; cơ chế thị trường và kinh tế tư nhân đang được chấp nhận như là “môi trường xã hội để con người và các doanh nghiệp tư nhân rèn luyện, phát huy tính tích cực, sáng tạo và liên tục đối mới để cung cấp cho xã hội những sản phẩm văn hóa vừa có chất lượng trí tuệ vừa có giá trị thương mại.

Quá trình phát triển sôi động của đất nước đang đặt ra nhu cầu nghiên cứu áp dụng hình thức đầu tư theo phương thức đối tác công - tư (ở mức độ thể nghiệm) trong lĩnh vực văn hóa nói chung và lĩnh vực bảo tồn di sản văn hóa gắn với du lịch văn hóa nói riêng nhằm tận dụng khả năng huy động các nguồn lực xã hội cho phát triển văn hóa.

Thực tế cho thấy, Luật Đầu tư theo phương thức đối tác công tư năm 2020 quy định chỉ có 5 lĩnh vực được áp dụng mô hình PPP mà không bao gồm lĩnh vực văn hóa. Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp quy định các khoản chi được khấu trừ khi xác định thu nhập chịu thuế, như các khoản tài trợ cho giáo dục, y tế, nghiên cứu khoa học, khắc phục hậu quả thiên tai…, lĩnh vực văn hóa cũng bị loại trừ. Trong khi đó, về tổng thể, mức đầu tư cho văn hóa tính trong tổng chi ngân sách là tương đối thấp so với các lĩnh vực khác và chưa tương xứng với nhu cầu thực tiễn đặt ra, đặc biệt yêu cầu đầu tư cho bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa lại cần có nguồn lực rất lớn. Vậy rất cần thể nghiệm mô hình hợp tác công tư trong lĩnh vực bảo tồn di sản văn hóa nhằm tháo gỡ vướng mắc lớn nêu trên.

Mô hình hợp tác đầu tư PPP đã khẳng định tính ưu việt ở nhiều nước trên thế giới, nhất là ở các nước đang phát triển. Người ta coi mô hình hợp tác công tư là một trong những công cụ hữu hiệu để đầu tư kết cấu hạ tầng cần thiết phục vụ lợi ích công và phát triển kinh tế - xã hội. Đây không chỉ là hình thức hợp tác giúp tối hưu hóa hiệu quả đầu tư cung cấp dịch vụ công chất lượng cao, sử dụng được kỹ năng, công nghệ hiện đại và tính hiệu quả trong quản lý của khu vực tư nhân, mà còn là công cụ/phương tiện cải cách quan trọng đối với lĩnh vực quản lý công. Đây còn là hình thức hợp tác mang lại lợi ích cho cả hai bên tận dụng được nguồn lực tài chính và quản lý từ tư nhân, trong khi vẫn bảo đảm lợi ích cho người dân, vừa mở rộng cơ hội tham gia của khu vực tư nhân, vừa khẳng định vai trò quản lý của chính phủ.

Hiện nay, trong lĩnh vực bảo tồn di sản văn hóa gắn với du lịch bền vững, một số địa phương trên cả nước, cũng đang vận hành tốt mô hình hợp tác công tư tại các khu di tích quốc gia đặc biệt, như mô hình hợp tác giữa Ban Quản lý di tích và danh thắng Yên Tử và Công ty Tùng Lâm trong việc bảo tồn di sản văn hóa gắn với phát triển du lịch ở thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh; Doanh nghiệp xây dựng Xuân Trường hợp tác với Ban quản lý Di sản hỗn hợp thế giới Tràng An và Sở Du lịch tỉnh Ninh Bình trong hoạt động bảo tồn di sản văn hóa gắn với phát triển du lịch, góp phần cải thiện sinh kế cho cư dân địa phương sống trong và liền kề với khu di sản, đồng thời góp phần thúc đẩy ngành du lịch tỉnh Ninh Bình phát triển.

Trong thời gian tới, tỉnh Nghệ An cũng sẽ triển khai dự án xây dựng “Trung tâm du lịch văn hóa” với tổng diện tích gần 43 ha ngay cửa ngõ dẫn vào Khu di tích lưu niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Kim Liên, huyện Nam Đàn cũng dưới hình thức hợp tác công tư.

Tóm lại, trong lĩnh vực di sản văn hóa, những mô hình thể nghiệm còn mang tính sơ khai như thế rất cần có sự đỡ đầu của Nhà nước về mặt luật pháp và cơ chế, chính sách để dần hình thành và phát triển như là một phương thức xã hội hóa các hoạt động bảo tồn nhằm biến di sản văn hóa thành nguồn lực/nguồn vốn cho phát triển kinh tế - xã hội./.