Phát huy giá trị tài nguyên di sản văn hóa gắn với phát triển du lịch ở các địa phương và vùng di sản
Từ góc nhìn định hướng chiến lược tổng thể của cả nước cũng như từ góc nhìn quản trị địa phương, vùng đều cho thấy, việc nhận diện đúng đắn các giá trị di sản cũng như tổ chức bảo vệ, khai thác, phát huy giá trị của di sản trong hoạt động du lịch là vô cùng cần thiết. Đây là điều kiện để di sản trở nên hữu dụng và có thêm đời sống mới, đáp ứng nhu cầu xã hội, yêu cầu phát triển bền vững và cũng là cơ sở để thiết lập nên sự cân bằng giữa bảo tồn và phát triển trong bối cảnh đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và xu thế toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng.
1. Việt Nam có nguồn tài nguyên di sản văn hóa vô cùng đa dạng, đặc sắc, là nguồn lực quý giá cho phát triển du lịch
Theo quy định của pháp luật, di sản văn hóa là tài sản quý giá của cộng đồng các dân tộc Việt Nam và là một bộ phận của di sản văn hóa nhân loại, có vai trò to lớn trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước của nhân dân ta. Điều 1, Luật Di sản văn hóa năm 2001 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) xác định rõ: Di sản văn hóa bao gồm di sản văn hóa phi vật thể và di sản văn hóa vật thể, là sản phẩm tinh thần, vật chất có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học, được lưu truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác ở Việt Nam. Trong đó, di sản văn hóa phi vật thể là sản phẩm tinh thần gắn với cộng đồng hoặc cá nhân, vật thể và không gian văn hóa liên quan, có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học, thể hiện bản sắc của cộng đồng, không ngừng được tái tạo và được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác bằng truyền miệng, truyền nghề, trình diễn và các hình thức khác; di sản văn hóa phi vật thể bao gồm: tiếng nói, chữ viết; ngữ văn dân gian; nghệ thuật trình diễn dân gian; tập quán xã hội và tín ngưỡng; lễ hội truyền thống; nghề thủ công truyền thống; tri thức dân gian. Di sản văn hóa vật thể là sản phẩm vật chất có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học bao gồm di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh, di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia.
Nghị định số 98/2010/NĐ-CP, ngày 21-9-2010, của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Di sản văn hóa và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Di sản văn hóa đã cụ thể hóa các hình thức biểu hiện của di sản văn hóa phi vật thể, gồm bảy loại hình: (1) Tiếng nói, chữ viết; (2) Ngữ văn dân gian; (3) Nghệ thuật trình diễn dân gian; (4) Tập quán xã hội và tín ngưỡng; (5) Lễ hội truyền thống; (6) Nghề thủ công truyền thống; (7) Tri thức dân gian. Đối với di sản văn hóa vật thể thì bao gồm: (1) Di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh (gọi chung là di tích); (2) di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia. Riêng đối với di tích, được phân loại cụ thể thành bốn loại: (1) di tích lịch sử, (2) di tích kiến trúc nghệ thuật, (3) di tích khảo cổ, (3) danh lam thắng cảnh.
Di sản văn hoá và thiên nhiên thế giới ở Việt Nam là di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh tiêu biểu của Việt Nam có giá trị nổi bật toàn cầu về văn hóa và thiên nhiên, được Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hợp quốc (UNESCO) ghi vào Danh mục di sản thế giới. Tính đến tháng 9-2023, Việt Nam đã có 9 di sản văn hóa và thiên nhiên thế giới được UNESCO công nhận. Về di sản tư liệu, tính đến nay, Việt Nam đã có 9 di sản tư liệu được Chương trình Ký ức Thế giới của UNESCO ghi danh.
Bên cạnh đó, Luật Du lịch năm 2017 phân chia tài nguyên du lịch thành hai loại: 1- Tài nguyên du lịch tự nhiên bao gồm cảnh quan thiên nhiên, các yếu tố địa chất, địa mạo, khí hậu, thủy văn, hệ sinh thái và các yếu tố tự nhiên khác có thể được sử dụng cho mục đích du lịch; 2- Tài nguyên du lịch văn hóa bao gồm di tích lịch sử - văn hóa, di tích cách mạng, khảo cổ, kiến trúc; giá trị văn hóa truyền thống, lễ hội, văn nghệ dân gian và các giá trị văn hóa khác; công trình lao động sáng tạo của con người có thể được sử dụng cho mục đích du lịch. Theo đó, các di sản văn hóa được xác định là một nguồn tài nguyên, nguồn lực quan trọng phục vụ cho phát triển du lịch.
Căn cứ trên các quy định của pháp luật về di sản văn hóa, theo thống kê của Cục Di sản, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, tính đến tháng 8-2022, trên toàn quốc có khoảng 7 vạn di sản văn hóa phi vật thể, trong đó có 416 di sản thuộc cả 7 loại hình di sản văn hoá phi vật thể của các dân tộc sinh sống trên mọi miền đất nước được đưa vào Danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia; có 14 di sản được UNESCO ghi danh (bao gồm 13 di sản văn hóa phi vật thể trong danh sách đại diện của nhân loại và 1 di sản văn hóa phi vật thể trong danh sách cần bảo vệ khẩn cấp). Về di sản văn hóa vật thể, trên cả nước, ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đã xếp hạng trên 10.000 di tích cấp tỉnh, thành phố; Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã xếp hạng 3.591 di tích quốc gia và Thủ tướng Chính phủ đã xếp hạng 123 di tích quốc gia đặc biệt; đồng thời, có hơn 4 vạn di tích đã được kiểm kê theo quy định của Luật Di sản văn hóa. Có 265 hiện vật, nhóm hiện vật được Thủ tướng Chính phủ công nhận là bảo vật quốc gia.
Với kho di sản văn hóa giàu có này, trong những năm gần đây, cùng với sự phát triển về trình độ kinh tế - xã hội đất nước, Việt Nam ngày càng coi trọng nguồn lực di sản và xem di sản văn hóa nói riêng và văn hóa nói chung là một loại tài nguyên, nếu được sử dụng phù hợp sẽ là động lực, chất xúc tác cho phát triển bền vững. Có thể nói di sản văn hóa là “tài nguyên” quý giá của cộng đồng các dân tộc Việt Nam; được hun đúc và phát triển qua hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước với những biến cố thăng trầm của lịch sử; là biểu tượng của sự trường tồn; là cầu nối giữa quá khứ, hiện tại và tương lai của dân tộc. Hệ thống di sản văn hóa không những tạo nên sự đa dạng, phong phú, bản sắc của nền văn hóa dân tộc trong bối cảnh hội nhập quốc tế, mà di sản văn hóa còn là nhân tố, nguồn lực quan trọng cho sự phát triển kinh tế, xã hội của đất nước. Trên phương diện kinh tế - xã hội, nhiều di sản văn hóa đã trở thành những sản phẩm văn hóa - du lịch hoàn chỉnh, vừa là động lực vừa là mục tiêu cho sự phát triển du lịch.
Chính vì thế, từ Hội nghị Trung ương 5 khóa VIII, Đảng ta đã khẳng định: “Di sản văn hoá là tài sản vô giá, gắn kết cộng đồng dân tộc, là cốt lõi của bản sắc dân tộc, cơ sở để sáng tạo những giá trị mới và giao lưu văn hóa… Hết sức coi trọng bảo tồn, kế thừa, phát huy những giá trị văn hóa truyền thống (bác học và dân gian), văn hóa cách mạng, bao gồm cả văn hóa vật thể và phi vật thể”. Cho đến nay, những quan điểm của Đảng về vai trò, ý nghĩa của di sản văn hóa cũng như những chủ trương về bảo tồn và phát huy giá trị của di sản văn hóa từ Hội nghị Trung ương 5 khóa VIII vẫn còn nguyên giá trị.
2. Bảo vệ, phát huy di sản văn hóa gắn với phát triển du lịch bền vững
Du lịch là một ngành kinh tế tổng hợp, sự phát triển của du lịch phụ thuộc rất nhiều vào tài nguyên và môi trường. Theo Chương trình Môi trường Liên hợp quốc (UNEP) và Tổ chức Du lịch quốc tế (UNWTO): Du lịch bền vững là du lịch có tính đến những tác động kinh tế, xã hội và môi trường trong hiện tại và tương lai, giải quyết nhu cầu của du khách, ngành công nghiệp, môi trường và cộng đồng sở tại. Vì vậy, du lịch bền vững cần sử dụng một cách tối ưu nhất các tài nguyên về môi trường, tôn trọng cộng đồng địa phương và bảo đảm hiệu quả kinh tế dài hạn, bền vững, đồng thời đem lại lợi ích công bằng cho các bên liên quan. Cụ thể hơn, du lịch bền vững cần bảo đảm các khía cạnh sau:
- Sử dụng tối ưu tài nguyên trong phát triển du lịch, duy trì các quá trình sinh thái thiết yếu và giúp bảo tồn di sản thiên nhiên và đa dạng sinh học.
- Tôn trọng tính xác thực về văn hóa - xã hội của các cộng đồng sở tại, bảo tồn di sản văn hóa, các giá trị truyền thống sống động, đồng thời đóng góp vào sự hiểu biết và hài hòa giữa các nền văn hóa.
- Bảo đảm các hoạt động kinh tế lâu dài, khả thi, phân chia công bằng lợi ích về kinh tế - xã hội cho tất cả các bên liên quan, bao gồm tạo việc làm ổn định, cơ hội tạo thu nhập cũng như các dịch vụ xã hội cho cộng đồng sở tại và góp phần xóa đói, giảm nghèo.
- Phát triển du lịch bền vững, đòi hỏi tất cả các bên liên quan tham gia một cách có ý thức, cũng như đòi hỏi phải có đường lối và quyết tâm chính trị mạnh mẽ nhằm tạo nên sự đồng thuận và tham gia rộng rãi của mọi tầng lớp, đối tượng trong xã hội. Du lịch bền vững là một quá trình làm việc và giám sát liên tục các tác động, đưa ra các biện pháp phòng ngừa và khắc phục kịp thời.
Tại Việt Nam, trong khoản 14, Điều 3, Luật Du lịch năm 2017 nêu rõ: “Phát triển du lịch bền vững là sự phát triển du lịch đáp ứng đồng thời các yêu cầu về kinh tế - xã hội và môi trường, bảo đảm hài hòa lợi ích của các chủ thể tham gia hoạt động du lịch, không làm tổn hại đến khả năng đáp ứng nhu cầu về du lịch trong tương lai”.
Có thể thấy, phát triển du lịch bền vững là phát triển những hoạt động du lịch với mục tiêu mang lại lợi ích kinh tế, tạo công ăn việc làm cho xã hội và cộng đồng; thỏa mãn các nhu cầu đa dạng của các thành phần tham gia du lịch… trên cơ sở khai thác các nguồn tài nguyên; đồng thời có ý thức đầu tư tôn tạo, bảo tồn và duy trì tính nguyên vẹn của các nguồn tài nguyên di sản văn hóa, bảo đảm môi trường trong sạch; phải gắn trách nhiệm và quyền lợi của cộng đồng trong việc khai thác, sử dụng và bảo vệ các loại tài nguyên, môi trường. Việc phát triển du lịch bền vững là phù hợp với xu thế chung, tất yếu của thế giới, bảo đảm sự phát triển chung của quốc gia, cũng như cho sự phát triển của ngành du lịch. Các nước đã rất quan tâm, chú trọng đến sự phát triển bền vững của ngành này, nhất là khi sự đóng góp của ngành du lịch ngày càng lớn.
Liên quan trực tiếp đến tài nguyên di sản văn hóa và du lịch, Ủy ban châu Âu còn đưa ra khái niệm “du lịch văn hóa bền vững” và định nghĩa: Du lịch văn hóa bền vững là quản lý tích hợp về di sản văn hóa và hoạt động du lịch trong sự phối hợp với cộng đồng địa phương, tạo ra lợi ích xã hội, môi trường và kinh tế cho tất cả các bên liên quan nhằm đạt được mục tiêu bảo tồn di sản văn hóa vật thể và phi vật thể, phát triển du lịch bền vững. Khái niệm này đã cho thấy rõ tính chất, yêu cầu và định hướng bảo tồn, khai thác và phát huy giá trị của di sản văn hóa đối với việc phát triển du lịch theo hướng bền vững ở mỗi địa phương và vùng di sản.
Hiện nay, vấn đề kết hợp giữa bảo vệ, khai thác, phát huy giá trị di sản với phát triển du lịch ở nước ta đang được áp dụng, triển khai ở nhiều địa phương, vùng di sản và đang tạo ra nhiều kết quả khả quan, nhất là về mặt kinh tế, nhưng cũng đang gây ra không ít hệ lụy tiêu cực đối với việc bảo tồn di sản văn hóa.
Về mặt tích cực, việc phát triển hoạt động du lịch văn hóa có thể đem lại nhiều lợi ích cho công tác bảo tồn, khai thác, sử dụng tài nguyên di sản văn hóa. Cụ thể như:
Thứ nhất, thông qua phát triển du lịch văn hóa bền vững, khách du lịch và cả cộng đồng cư dân sinh sống trên không gian vùng di sản có thể nhận thức đầy đủ về sức hấp dẫn, độc đáo và giá trị văn hóa ẩn chứa trong di sản văn hóa (bao gồm cả di sản văn hóa, di sản thiên nhiên). Từ đó, chính quyền địa phương sẽ có biện pháp chủ động để bảo vệ tài nguyên di sản văn hóa, biến nó thành thương hiệu, dấu hiệu, biểu tượng của địa phương; những người làm công tác phát triển du lịch sẽ bảo vệ và duy trì đúng mức đối với di sản nhằm bảo đảm lợi ích kinh tế và lợi nhuận lớn mà du lịch di sản văn hóa mang lại.
Thứ hai, phát triển du lịch trên nền tảng khai thác giá trị di sản văn hóa có thể được sử dụng bền vững và giá trị kinh tế có thể được tạo ra liên tục. Lợi ích kinh tế bao gồm lợi ích trực tiếp thu được từ vé du lịch và hoạt động du lịch liên quan đến các di sản, và lợi ích gián tiếp thu được do phát triển các ngành dịch vụ liên quan tạo ra. Phát triển du lịch trên vùng di sản góp phần thúc đẩy hoàn thiện hệ thống kết cấu hạ tầng cứng (bao gồm: cơ sở lưu trú, giao thông, trung tâm kinh tế - thương mại,…) và kết cấu hạ tầng mềm (dịch vụ thông tin, dịch vụ tài chính, dịch vụ vui chơi giải trí, trải nghiệm…); kích cầu, kích thích chi tiêu, tạo nguồn nguồn thu cho các địa phương và vùng di sản; đồng thời, tạo công ăn việc làm, tăng thu nhập, cải thiện đời sống của người dân trong vùng; góp phần phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững ổn định trật tự, an toàn xã hội điạ phương.
Thứ ba, bằng cách tham quan, lưu trú, trải nghiệm trên các vùng di sản, du khách có thể trực tiếp giao lưu, tiếp xúc, cảm nhận đầy đủ toàn bộ không gian tồn tại của di sản văn hóa; có thêm nhiều trải nghiệm, cảm xúc bất ngờ, mới lạ và thậm chí phát sinh tình cảm gắn bó sâu sắc đối với không gian di sản. Điều này sẽ khuyến khích du khách và người dân có mong muốn bảo vệ di sản, quảng bá, lan tỏa, tuyên truyền về di sản và không gian di sản, thúc đẩy du lịch phát triển mạnh mẽ hơn nữa.
Trên thực tế, ở Việt Nam, nhiều địa phương trên cả nước đã và đang hình thành, phát triển các sản phẩm du lịch văn hóa khá đa dạng như: tuyến du lịch kết nối di sản thế giới các nước ASEAN, tuyến du lịch di sản miền Trung, tuyến du lịch trên khu di sản thế giới hỗn hợp Tràng An, festival Huế, festival biển Nha Trang, lễ hội carnaval biển Hạ Long…; các chương trình nghệ thuật đặc sắc như: “Ký ức Hội An”, “Tinh hoa Bắc Bộ”… Năm 2022, Tổ chức Giải thưởng Du lịch thế giới (WTA) bình chọn Việt Nam là “Điểm đến di sản hàng đầu thế giới”. Đây là những minh chứng sống động cho việc phát huy giá trị của di sản trong phát triển du lịch, khẳng định sự đóng góp tích cực, hiệu quả của các di sản văn hóa tại Việt Nam trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội, tạo sinh kế cho cộng đồng địa phương, vùng có di sản, góp phần cân bằng và bảo vệ môi trường, thúc đẩy sự phát triển bền vững. Có thể nói, hoạt động du lịch bền vững không chỉ tạo ra giá trị kinh tế mà còn thúc đẩy sự ủng hộ của cộng đồng đối với việc bảo vệ, khai thác và tôn vinh giá trị của di sản trong tương lai.
Về mặt tiêu cực, việc phát triển du lịch có thể tạo ra những nguy cơ, thách thức đối với việc bảo tồn di sản văn hóa như:
Thứ nhất, vận hành thương mại quá mức sẽ dẫn đến hiện tượng đô thị hóa, thương mại hóa, nhân tạo hóa và cả tình trạng quá tải tại các khu di sản… Ví dụ, ở khu phố cổ Hội An, một lượng lớn doanh nghiệp trong và ngoài nước đã thuê nhà và mở cửa hàng, biến khu vực sinh sống của cư dân thành khu kinh doanh, thương mại, không còn giữ được không gian văn hóa vốn có của nó. Hoạt động du lịch theo đuổi lợi ích kinh tế ngắn hạn, bỏ qua đặc tính “mong manh” của di sản văn hóa và các vấn đề về năng lực vận chuyển du lịch, đón khách du lịch vượt quá khả năng, đã gây ra tình trạng ô nhiễm rác thải, không khí, nguồn nước do các dòng khách du lịch khổng lồ đổ về; dẫn đến tình trạng hư hỏng, xuống cấp, biến dạng, suy giảm tính xác thực, toàn vẹn của di sản văn hóa do bị khai thác quá mức…
Thứ hai, trong quá trình khai thác di sản phục vụ hoạt động du lịch, các nguyên tắc về tính xác thực, toàn vẹn của việc bảo vệ di sản cũng như nhu cầu bảo vệ lâu dài, sử dụng bền vững thường không được chú trọng, khiến cho di sản dần mất đi tính xác thực và toàn vẹn của nó; các giá trị đặc trưng, bản sắc di sản và môi trường, không gian tồn tại của di sản bị phá hủy hoặc bị làm sai lệch. Các khách sạn, nhà hàng, cửa hàng, biệt thự, cáp treo và các công trình cảnh quan quy mô lớn được xây dựng ở những nơi không phù hợp trong vùng di sản văn hóa hoặc việc xây dựng lộn xộn, kiến trúc không tương thích khiến cho di sản văn hóa trở nên lạc lõng, suy giảm giá trị vốn có.
Thứ ba, hoạt động khai thác di sản văn hóa để phục vụ du lịch luôn tiềm tàng nguy cơ vì lợi ích hiện tại mà phá hủy nguồn lực cho phát triển bền vững, chỉ chú trọng lợi ích trước mắt mà đánh giá thấp lợi ích lâu dài; coi trọng lợi ích địa phương hơn lợi ích tổng thể quốc gia; coi trọng lợi ích trực tiếp hơn lợi ích gián tiếp… Với sự phát triển nhanh chóng của du lịch trên các địa phương, vùng văn hóa di sản và số lượng khách du lịch tăng mạnh, các khu bảo tồn di sản đang bắt đầu phải đối mặt với áp lực ngày càng tăng về vấn đề bảo vệ môi trường sinh thái. Ví dụ, lưu lượng giao thông tăng mạnh, mức tiêu thụ điện tăng đáng kể, lượng khí thải tăng, chất lượng không khí giảm, ô nhiễm tiếng ồn tăng, rác thải tăng… và môi trường sinh thái bị hủy hoại do chưa xử lý đúng mối quan hệ giữa bảo vệ di sản và phát triển du lịch.
Thứ tư, việc khai thác di sản văn hoá cho du lịch chỉ đem lại lợi ích cho một bộ phận dân cư nhất định mà nguồn lợi không được phân chia công bằng cho đại bộ phận cộng đồng địa phương. Ở nhiều nơi, phát triển du lịch dựa trên tài nguyên di sản không mang lại lợi ích cho sự phát triển chung của cộng đồng; không tạo ra sinh kế cho cộng đồng dân cư địa phương; đôi khi còn làm sâu sắc thêm sự bất bình đẳng, chênh lệch giàu - nghèo; hoặc cộng đồng địa phương không được trao quyền, không được tham gia, không được hưởng lợi phù hợp; cộng đồng chưa thực sự trở thành chủ nhân, đối tượng, mục tiêu hướng tới của sự phát triển trên nền tảng giá trị di sản.
Thứ năm, việc phát triển du lịch có thể làm suy yếu của các cấu trúc xã hội hoặc các lối sống, nếp sống truyền thống, phong tục tập quán tốt đẹp trong vùng di sản. Trong đó, một trong những hiện tượng diễn ra phổ biến là cư dân địa phương có xu hướng rời bỏ địa bàn nơi họ đã sống thuộc vùng lõi của khu di sản và chuyển đến các khu vực ngoại vi của di sản. Ngoài ra, lối sống, nếp sống, văn hoá ứng xử của người dân có thể thay đổi theo cách thực dụng và thương mại hoá hơn.
3. Nguyên tắc, yêu cầu và một số giải pháp chủ yếu nhằm giải quyết tốt mối quan hệ giữa bảo tồn, phát huy di sản và phát triển du lịch theo hướng bền vững trong thời gian tới
Về nguyên tắc chung trong kết hợp bảo tồn, phát huy di sản văn hóa và phát triển du lịch: Khi thực hiện hoạt động du lịch ở địa phương và vùng di sản, cần phải lưu giữ đầy đủ những yếu tố về không gian môi trường tự nhiên, văn hóa lịch sử của di sản để bảo đảm tính xác thực của di sản văn hóa. Di sản không tồn tại độc lập mình nó, mà tồn tại trong không gian tự nhiên và xã hội của nó, tạo thành một tổng thể chung. Trong di sản văn hóa, chỉ cần một thành phần nào đó bị hư hỏng sẽ gây tổn thất lớn đến giá trị tổng thể của di sản. Vì vậy, cần bảo vệ sự toàn vẹn của toàn bộ không gian di sản văn hóa. Trong quá trình bảo vệ di sản văn hóa, không chỉ phải bảo vệ bản thân di sản văn hóa mà còn phải bảo vệ toàn bộ môi trường tự nhiên, xã hội và không gian văn hóa xung quanh nó. Ví dụ, khi chúng ta đang bảo vệ khu phố cổ, nên yêu cầu cư dân xung quanh tiếp tục sinh sống ở đó, duy trì đời sống văn hóa vật chất và tinh thần vốn có của nó, không nên bảo vệ di sản bằng cách yêu cầu cư dân di dời đi nơi khác. Nguyên tắc cao nhất đối với việc bảo vệ di sản văn hóa là tạo điều kiện cho di sản văn hóa, không gian tồn tại của di sản được phát triển phù hợp và bền vững. Mục đích chính của việc bảo tồn di sản văn hóa là truyền lại đầy đủ tinh thần, tư duy, cảm xúc, thẩm mỹ nghệ thuật và văn hóa lịch sử mà nó chứa đựng cho các thế hệ hôm nay và cả mai sau. Vì vậy, cần có biện pháp khoa học trong quá trình bảo vệ, khai thác, phát huy di sản văn hóa, để làm cho di sản văn hóa không những được tiếp tục tồn tại mà còn có thêm “đời sống mới” trong bối cảnh mới trên nền tảng giữ vững giá trị đặc sắc, đặc trưng, điển hình vốn có của di sản; có thế mới bảo đảm được yêu cầu của phát triển bền vững.
Khi khai thác tài nguyên di sản văn hóa phục vụ hoạt động du lịch, cần đáp ứng các yêu cầu sau:
Thứ nhất, bảo đảm di sản văn hóa không bị khai thác quá mức giới hạn, đem đến những tác động tiêu cực về môi trường, văn hóa, kinh tế - xã hội nhưng cũng tránh tình trạng tài nguyên di sản được bảo tồn một cách cứng nhắc, thiếu sức sống và không được phát huy hiệu quả. Phát triển du lịch trên cơ sở bảo tồn và phát huy, làm giàu, tôn trọng, giữ gìn những giá trị cốt lõi, bản sắc, tính độc đáo của tài nguyên văn hóa, đồng thời giảm thiểu tối đa các tác động tiêu cực từ du lịch đến tài nguyên di sản văn hóa (về môi trường, về kinh tế - xã hội, về văn hóa). Bảo vệ, phát huy các giá trị di sản văn hóa như là chất liệu nền tảng để phát triển, chuyển hóa thành những sản phẩm du lịch xanh đặc trưng có chất lượng cao và thân thiện với môi trường.
Thứ hai, quản lý tài nguyên di sản văn hóa và du lịch bằng các thể chế, chính sách đồng bộ với cơ cấu tổ chức, nguồn lực tài chính và các biện pháp quản lý phù hợp, bảo đảm phát triển hài hòa, cân bằng về mục tiêu gắn với phát triển bền vững. Quản lý, sử dụng tài nguyên di sản văn hóa gắn với bảo vệ môi trường sinh thái tự nhiên, sinh thái nhân văn của di sản theo khuyến cáo của UNESCO, bảo vệ những giá trị đặc sắc của di sản.
Thứ ba, bảo đảm sự tham gia của cộng đồng địa phương, nâng cao lợi ích và trách nhiệm của cộng đồng, khuyến khích họ trở thành chủ nhân thực sự đóng góp vào nỗ lực chung bảo tồn và phát huy các giá trị di sản, xử lý hài hòa mối quan hệ với các bên liên quan trong sử dụng hợp lý tài nguyên văn hóa gắn với phát triển du lịch xanh, góp phần giải quyết tốt vấn đề lao động, việc làm và an sinh xã hội.
Thứ tư, ứng dụng đổi mới sáng tạo, khoa học - công nghệ, chuyển đổi số, khuyến khích huy động nguồn lực của các chủ thể có liên quan trong việc bảo vệ, phát huy tài nguyên di sản văn hoá gắn với phát triển du lịch bền vững, có thể ở nhiều khía cạnh như quản lý, sản xuất, kinh doanh, quảng bá, số hóa tư liệu, lưu trữ và cách thức tiêu dùng bền vững, thông minh, giảm tác động đến môi trường.
Nhằm thực hiện có hiệu quả hơn nữa việc bảo tồn, phát huy di sản văn hóa gắn với phát triển du lịch bền vững, cần chú trọng thực hiện một số giải pháp chủ yếu sau:
Một là, xây dựng, hoàn thiện các cơ chế, biện pháp, cơ cấu tổ chức phương thức, quản trị để có thể bảo tồn các yếu tố cốt lõi của tài nguyên di sản văn hoá như nền tảng thiết yếu cho phát triển du lịch bền vững, sử dụng tài nguyên di sản văn hóa một cách có kiểm soát nhằm bảo vệ được tài nguyên, tối đa hoá những tác động có lợi của du lịch; đồng thời giảm thiểu những tác động tiêu cực về kinh tế, văn hóa, xã hội, môi trường để bảo vệ, gìn giữ tài nguyên di sản văn hóa. Hoạch định chiến lược trong bảo vệ tài nguyên di sản văn hoá; việc bảo tồn lâu dài và nâng cao giá trị của một tài sản đòi hỏi phải lập kế hoạch cẩn thận, bao gồm các nghiên cứu về giá trị của di sản, các kế hoạch trung hạn, dài hạn, đánh giá các tác động tiềm tàng đối với di sản và thiết lập kế hoạch, giải pháp, định hướng trong tương lai.
Thứ hai, tăng cường nguồn lực (bao gồm nhân lực và vật lực) cho hệ thống quản lý di sản ở địa phương và vùng di sản để bảo đảm việc bảo vệ, khai thác di sản được hiệu quả và thể hiện đầy đủ các giá trị của di sản văn hoá cũng như bảo đảm sự tôn trọng đối với cộng đồng địa phương. Cần nâng cao nhận thức của người dân và cán bộ quản lý, cán bộ văn hóa và các tầng lớp nhân dân, nhất là cộng đồng người dân sinh sống trong vùng di sản về giá trị của di sản và trách nhiệm đối với việc bảo vệ, khai thác, phát huy giá trị di sản; đẩy mạnh tuyên truyền, quảng bá, lan tỏa thương hiệu di sản của địa phương nói riêng và đất nước, con người Việt Nam nói chung. Ngoài ra, cần hỗ trợ, đầu tư tài chính cho việc bảo vệ và phát huy tài nguyên di sản văn hoá; các cơ quan quản lý cần áp dụng một tỷ lệ phù hợp được trích ra từ doanh thu du lịch để bảo đảm cho việc bảo tồn và quản lý các giá trị tài nguyên di sản văn hoá cũng như để đóng góp cho sự phát triển của cộng đồng địa phương. Gia tăng ứng dụng khoa học công nghệ mới vào hoạt động quản lý du lịch ở vùng di sản; cụ thể như: Xây dựng kho cơ sở dữ liệu số về thông tin về khách du lịch, lịch sử, văn hóa, và môi trường; kho dữ liệu thông tin về các điểm tham quan, lịch trình du lịch, và gợi ý các hoạt động phù hợp trên vùng di sản. Tăng cường công nghệ giám sát, bảo vệ, cảnh báo, phát hiện các hoạt động bất thường; tư vấn du lịch thông minh cung cấp thông tin du lịch đa ngôn ngữ …
Thứ ba, việc khai thác, sử dụng tài nguyên di sản văn hóa phải có tính đổi mới và sáng tạo; tăng cường hàm lượng khoa học, công nghệ, sáng tạo trong việc gìn giữ, bảo tồn, khai thác, phát huy giá trị di sản và đa dạng hóa các sản phẩm và giá trị văn hóa được tạo nên trên nền tảng di sản, để tài nguyên di sản văn hóa có thể tiếp tục được tái tạo, truyền thêm sức sống và gia tăng giá trị. Bởi chỉ khi tài nguyên văn hóa được nâng cấp và tăng cường liên tục, nó mới có thể duy trì được sức sống bền vững và đáp ứng được yêu cầu phát triển du lịch theo hướng bền vững. Tăng cường chuyển hóa các tài nguyên văn hóa thành các sản phẩm, loại hình du lịch, đa dạng hóa hình thức, loại hình của các sản phẩm du lịch, để di sản có thể đến được với nhiều nhóm du khách khác nhau, tối ưu hóa được giá trị của di sản.
Thứ tư, tăng cường phối hợp giữa các chủ thể, cơ quan, ban, ngành, nhà quản lý, nhà khoa học, nhà đầu tư và cộng đồng người dân trong quá trình bảo vệ, khai thác và phát huy di sản gắn với phát triển du lịch theo hướng bền vững. Du lịch có một vai trò quan trọng trong quá trình đưa tài nguyên di sản văn hoá gắn với đời sống vì nó kết nối trực tiếp công chúng, du khách với các loại hình tài nguyên di sản văn hóa. Sự năng động, sức sống và tính bền vững của việc sử dụng hợp lý tài nguyên di sản văn hoá cho du lịch bền vững được định hình nhờ sự tương tác và hợp tác hiệu quả giữa các bên liên quan như nhà khoa học, cộng đồng, du khách, chính quyền địa phương, doanh nghiệp... Sự thành công của du lịch dựa trên nền tảng di sản văn hóa, ngoài vấn đề thể chế, cơ chế, chính sách, còn phụ thuộc vào các tác nhân rất cụ thể như những người điều hành tour du lịch và những nhân sự trong dịch vụ lưu trú, công tác vận chuyển và điểm tham quan… Vì vậy, cần tăng cường mối quan hệ giữa các bên liên quan, có tính đến lợi ích của cộng đồng cũng như của các lực lượng thị trường và sự phối hợp của chính quyền địa phương. Các quy trình hợp tác, đối thoại đóng vai trò quan trọng đối với việc giải quyết những khác biệt để đạt được sự đồng thuận và thông qua các quyết định để bảo đảm các mục tiêu bền vững và có thể tạo ra lợi ích cho tất cả các bên. Có như vậy thì tài nguyên di sản mới thực sự phát huy hết được giá trị của mình, phục vục cho phát triển bền vững về kinh tế - xã hội và góp phần giữ vững ổn định, an ninh, trật tự cho các địa phương, vùng di sản nói riêng và cho cả nước nói chung./.
Phát triển kinh tế di sản tại tỉnh Ninh Bình (05/12/2024)
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về “Hạnh phúc” và dựng xây Việt Nam hạnh phúc trong kỷ nguyên phát triển mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc
- Nâng cao bản lĩnh chính trị cho đội ngũ cán bộ chủ trì các cấp trong Quân đội nhân dân Việt Nam, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới
- Giải pháp thực hiện các chính sách kinh tế - liên quan đến mối quan hệ dân tộc, tộc người với tôn giáo
- Phát huy vai trò của Kiểm toán nhà nước trong công cuộc phòng, chống lãng phí
- Phát huy trí tuệ của đội ngũ trí thức khoa học xã hội và nhân văn góp phần phát triển đất nước trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc
-
Chính trị - Xây dựng Đảng
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - Bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển -
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Chiến thắng Điện Biên Phủ - Bài học lịch sử và ý nghĩa đối với sự nghiệp đổi mới hiện nay -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Đổi mới tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị “tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả” theo tinh thần định hướng của Đồng chí GS, TS, Tổng Bí thư Tô Lâm -
Việt Nam trên đường đổi mới
Những thành tựu cơ bản về phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam từ khi đổi mới đến nay