Trách nhiệm xã hội doanh nghiệp trong tiến trình chuyển đổi năng lượng công bằng ở Việt Nam

TS Nguyễn Thị Hồng
Khoa Quản trị kinh doanh 1, Học viện Công nghệ Bưu chính Viễn thông
11:10, ngày 29-11-2025

TCCS - Chuyển đổi năng lượng công bằng không chỉ là cam kết toàn cầu mà còn mở ra cơ hội để Việt Nam định hình lại mô hình phát triển. Đây không đơn thuần là câu chuyện kỹ thuật hay vốn đầu tư, mà gắn liền với vấn đề công bằng xã hội, bảo vệ môi trường và sự bao trùm trong tăng trưởng. Trong bối cảnh đó, trách nhiệm xã hội doanh nghiệp giữ vai trò cầu nối, giúp doanh nghiệp đồng hành với cộng đồng trong tiến trình chuyển đổi xanh, bảo đảm hành trình hướng tới mục tiêu NetZero công bằng và bền vững.

Mối liên hệ giữa trách nhiệm xã hội doanh nghiệp và chuyển đổi năng lượng công bằng

Trách nhiệm xã hội doanh nghiệp (Corporate Social Responsibility - CSR) và chuyển đổi năng lượng công bằng (Just Energy Transition - JET) có mối quan hệ hữu cơ, bổ trợ cho nhau trong việc hiện thực hóa mục tiêu phát triển bền vững. Về bản chất, CSR cung cấp khuôn khổ để doanh nghiệp lồng ghép các giá trị xã hội và môi trường vào hoạt động kinh doanh, trong khi JET đòi hỏi sự tham gia chủ động của doanh nghiệp nhằm bảo đảm tính công bằng trong quá trình dịch chuyển sang năng lượng sạch.

CSR không chỉ giới hạn ở những hoạt động từ thiện hoặc hỗ trợ cộng đồng, mà còn được tích hợp vào chiến lược kinh doanh như một công cụ tạo ra giá trị chung. Trong bối cảnh JET, khái niệm giá trị chung được thể hiện rõ nét qua việc doanh nghiệp vừa đầu tư vào công nghệ xanh để gia tăng lợi thế cạnh tranh, vừa đồng thời bảo vệ quyền lợi người lao động và cộng đồng địa phương(1). Điều này cho thấy, CSR chính là cầu nối để biến các nguyên tắc công bằng của JET thành những hành động cụ thể trong thực tiễn kinh doanh. Quá trình chuyển đổi năng lượng chỉ có thể thành công khi doanh nghiệp tham gia đầy đủ trên ba phương diện: (i) Chia sẻ công bằng lợi ích và chi phí của chuyển đổi; (ii) Tham gia vào quá trình ra quyết định cùng với Nhà nước và các bên liên quan; (iii) Quan tâm, bảo vệ những nhóm lao động hoặc cộng đồng dễ bị tổn thương. Đây cũng chính là những nội dung then chốt của CSR(2). Nói cách khác, CSR không chỉ là yếu tố bổ sung cho chuyển đổi năng lượng công bằng, mà còn là công cụ để biến các nguyên tắc công bằng của JET thành hành động cụ thể trong thực tiễn.

Có thể nói, mối liên hệ giữa CSR và JET thể hiện ở việc JET đặt ra yêu cầu công bằng, còn CSR là cơ chế để doanh nghiệp hiện thực hóa yêu cầu đó. Sự kết hợp này làm cho chuyển đổi năng lượng không chỉ là sự thay đổi về công nghệ, mà còn là sự thay đổi trong cách doanh nghiệp thực hiện trách nhiệm xã hội, góp phần thúc đẩy phát triển bền vững và công bằng ở Việt Nam. Trong tiến trình chuyển đổi năng lượng công bằng, CSR được thể hiện rõ nhất ở ba phương diện: (i) Kinh tế: cam kết đầu tư vào công nghệ sạch, nâng cao hiệu quả năng lượng, phát triển mô hình sản xuất xanh để tăng năng lực cạnh tranh; (ii) Xã hội: bảo đảm việc làm, đào tạo lại cho lao động thuộc các ngành nghề truyền thống (than, dầu khí), đồng thời hỗ trợ cộng đồng chịu ảnh hưởng bởi sự dịch chuyển năng lượng; (iii) Môi trường: giảm phát thải, phục hồi sinh thái, tham gia các sáng kiến quốc tế về bảo vệ khí hậu.

Thực tiễn trách nhiệm xã hội gắn với chuyển đổi năng lượng công bằng ở Việt Nam

Ở khía cạnh kinh tế, CSR thể hiện ở việc tạo ra lợi nhuận, gắn kết giữa mục tiêu tài chính với sự phát triển bền vững. Thực tiễn ở Việt Nam cho thấy, nhiều doanh nghiệp đã coi CSR là một công cụ chiến lược để mở rộng thị trường, nâng cao năng lực cạnh tranh và bảo đảm sự ổn định dài hạn.

Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) coi CSR kinh tế là một phần trong chiến lược bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia. Năm 2024, EVN đã chi khoảng 112.000 tỷ đồng để đầu tư xây dựng và nâng cấp lưới điện, tiếp tục đầu tư 109.000 tỷ đồng trong năm 2025 nhằm hiện đại hóa hạ tầng truyền tải và phân phối điện(3). Đầu tư này giúp giảm tổn thất điện năng, tạo điều kiện để hòa lưới cho các dự án điện gió, điện mặt trời, đồng thời ổn định cung ứng cho sản xuất công nghiệp. Như vậy, CSR trong kinh tế ở EVN thể hiện ở không chỉ phục vụ lợi nhuận trước mắt, mà ở việc đầu tư dài hạn nhằm tạo nền tảng hạ tầng cho hệ sinh thái năng lượng quốc gia. Đáng chú ý, PVGas - thành viên của Tập đoàn Công nghiệp - Năng lượng quốc gia Việt Nam (PVN) đang khẳng định vai trò tiên phong trong đổi mới kinh tế xanh thông qua việc thử nghiệm sản xuất và cung cấp hydrogen xanh quy mô nhỏ cho khu công nghiệp và lĩnh vực vận tải. PV Gas đặt mục tiêu phát triển hydrogen phát thải thấp, mở ra thị trường năng lượng mới tại Việt Nam(4). Bước đi này tạo cơ hội kinh doanh, giúp doanh nghiệp sớm thích ứng với chính sách thuế carbon và xu hướng thị trường năng lượng sạch toàn cầu.

Bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia theo hướng phát triển đồng bộ các nguồn năng lượng, đa dạng hóa các nguồn cung cấp và hỗ trợ các nguồn năng lượng mới (Trong ảnh: Kiểm tra hệ thống thiết bị tại Nhà máy điện mặt trời Đa Mi, tỉnh Lâm Đồng)_Ảnh: Tư liệu

Ở khía cạnh xã hội, CSR xã hội đóng vai trò quan trọng trong việc bảo đảm công bằng, nâng cao phúc lợi cộng đồng trong quá trình chuyển đổi năng lượng. Điều này có ý nghĩa quan trọng trong bối cảnh Việt Nam đang hướng tới mục tiêu phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050, hàng triệu lao động trong các ngành năng lượng truyền thống phải đối diện với rủi ro mất việc hoặc chuyển đổi nghề nghiệp. Đơn cử, EVN xây dựng nền tảng cho công tác đào tạo trọng điểm, đào tạo cán bộ quản lý và chuyên gia và áp dụng công nghệ thông tin trong đào tạo, nhằm chuẩn hóa năng lực cho nhân viên đáp ứng yêu cầu ngày càng cao trong quản trị, vận hành hệ thống điện(5). Đây là cách thức doanh nghiệp thực hiện CSR ở khía cạnh xã hội, giúp người lao động “không bị bỏ lại phía sau” trong tiến trình chuyển đổi năng lượng. Các doanh nghiệp năng lượng tái tạo tư nhân đóng vai trò quan trọng đối với các hoạt động vì cộng đồng. Theo Báo cáo Phát triển bền vững PVN 2022, Petrovietnam đã triển khai nhiều hoạt động trách nhiệm cộng đồng trong giáo dục, y tế và hỗ trợ người nghèo tại các địa phương. Những cam kết này thể hiện vai trò lâu dài và bền vững của doanh nghiệp đối với phát triển con người(6).

Ở khía cạnh môi trường, CSR có ý nghĩa đặc biệt trong tiến trình chuyển đổi năng lượng công bằng, bởi mục tiêu cuối cùng của quá trình này là giảm phát thải khí nhà kính, kiểm soát ô nhiễm và bảo vệ hệ sinh thái. Việt Nam hiện nằm trong nhóm 5 quốc gia chịu ảnh hưởng nặng nề nhất của biến đổi khí hậu, với dự báo nếu mực nước biển tăng 1m, khoảng 11% dân số và 7% số diện tích đất nông nghiệp có thể bị ngập nhất là ở khu vực đồng bằng ven biển(7). Do đó, việc các doanh nghiệp chủ động thực hiện CSR gắn với bảo vệ môi trường thể hiện trách nhiệm và cam kết đóng góp cho sự phát triển bền vững của nền kinh tế - xã hội.

Tập đoàn T&T - nhà đầu tư tư nhân lớn trong lĩnh vực điện gió - những năm qua đưa vào vận hành nhiều nhà máy điện gió và điện mặt trời, với tổng công suất gần 1.000MW hòa lưới quốc gia, góp phần giảm phát thải khí nhà kính từ hoạt động phát điện truyền thống và nâng cao tính bền vững trong cung cấp điện(8), đồng thời kết hợp triển khai các chương trình bảo tồn sinh thái địa phương. Từ thực tiễn hoạt động của Tập đoàn T&T cho thấy, CSR môi trường không dừng lại ở hoạt động giảm phát thải mà mở rộng sang lĩnh vực bảo vệ đa dạng sinh học.

Đáng chú ý, nhiều doanh nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng cũng tích cực tham gia CSR môi trường bằng cách chuyển đổi công nghệ. Nestlé Việt Nam thể hiện cam kết dài hạn bằng việc công bố khoản đầu tư mới 75 triệu USD (gần 1.900 tỷ đồng) để mở rộng nhà máy Nestlé Trị An (tỉnh Đồng Nai). Nestlé Trị An là hình mẫu về phát triển bền vững khi tiên phong áp dụng mô hình kinh tế tuần hoàn. Trong đó, bã cà phê sau sản xuất được tái chế thành nhiên liệu sinh khối, gạch không nung và phân vi sinh. Hệ thống xử lý nước tuần hoàn, cơ chế giảm phát thải CO₂, cùng việc không chôn lấp rác thải kể từ năm 2015 cho thấy tầm nhìn chiến lược về môi trường của Nestlé(9).

Tuy nhiên, kết quả này mới chỉ tập trung ở một số doanh nghiệp có tiềm lực tài chính mạnh hoặc doanh nghiệp FDI. Khối doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nước vẫn còn hạn chế về nguồn lực, công nghệ và năng lực quản trị ESG. Cụ thể:

Nhiều doanh nghiệp khó khăn về nguồn lực tài chính hạn chế và tiếp cận vốn xanh. Đặc thù của các dự án năng lượng tái tạo, năng lượng sạch hoặc cải tiến công nghệ giảm phát thải là đòi hỏi chi phí đầu tư ban đầu rất cao, trong khi thời gian hoàn vốn thường kéo dài. Theo báo cáo của Ngân hàng Thế giới, để đạt mục tiêu phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050, Việt Nam cần huy động khoảng 368 tỷ USD, tương đương 6,8% GDP mỗi năm trong giai đoạn 2022 - 2040(10). Đây là con số vượt quá khả năng của nhiều doanh nghiệp trong nước, đặc biệt là nhóm doanh nghiệp nhỏ và vừa. Khó khăn càng rõ rệt hơn khi các nguồn vốn xanh quốc tế quy định nhiều điều kiện ràng buộc. Để tiếp cận các nguồn này, doanh nghiệp phải đáp ứng các tiêu chuẩn khắt khe về minh bạch tài chính, quản trị ESG, báo cáo phát thải khí nhà kính. Hiện nay chỉ có một tỷ lệ nhỏ doanh nghiệp Việt Nam có đủ năng lực đáp ứng các yêu cầu này. Điều đó có nghĩa là phần lớn doanh nghiệp, đặc biệt là SMEs và doanh nghiệp địa phương, vẫn bị “loại ra” khỏi “dòng chảy” vốn xanh toàn cầu.

Bên cạnh đó, tính bất định trong một số chính sách và các rủi ro pháp lý kèm theo làm giảm đáng kể niềm tin của nhà đầu tư, dẫn đến sự hạn chế trong quá trình doanh nghiệp thực hiện CSR gắn với chuyển đổi năng lượng công bằng tại Việt Nam. Hệ thống chính sách năng lượng còn thiếu tính ổn định và nhất quán. Các cơ chế khuyến khích phát triển năng lượng tái tạo, đặc biệt là giá mua điện, đã có nhiều thay đổi trong giai đoạn 2018 - 2022. Sự điều chỉnh đột ngột về cơ chế giá mua cho điện mặt trời và điện gió, cùng với việc chậm ban hành cơ chế chuyển tiếp, khiến hàng loạt dự án năng lượng tái tạo rơi vào tình trạng không vận hành hoặc vận hành nhưng chưa có giá bán điện chính thức. Sự bất định này làm gia tăng rủi ro tài chính, khiến các ngân hàng thận trọng hơn trong việc cho vay. Các nhà đầu tư nước ngoài dè chừng hơn đầu tư vốn. Rủi ro pháp lý và thủ tục hành chính phức tạp cũng là trở ngại lớn. Quá trình cấp phép cho dự án năng lượng tái tạo thường kéo dài và đòi hỏi sự chấp thuận của nhiều cơ quan, dẫn đến chi phí giao dịch cao và nguy cơ chậm tiến độ. Điều này làm tăng chi phí pháp lý, ảnh hưởng đến uy tín của Việt Nam trên thị trường năng lượng quốc tế.

Việt Nam đẩy mạnh phát triển sản xuất năng lượng hydrogen và các nhiên liệu có nguồn gốc hydrogen tại các khu vực có tiềm năng, lợi thế về năng lượng tái tạo_Ảnh: Tư liệu

Một rào cản khác trong việc triển khai CSR gắn với chuyển đổi năng lượng công bằng ở Việt Nam là hạ tầng lưới điện và năng lực kỹ thuật còn hạn chế, dẫn đến tình trạng cắt giảm công suất và nghẽn mạch truyền tải. Điều này ảnh hưởng đến hiệu quả kinh tế của các dự án năng lượng tái tạo, gây cản trở doanh nghiệp trong thực hiện cam kết CSR về môi trường và phát triển bền vững. Hệ thống lưới điện quốc gia hiện nay chưa theo kịp tốc độ phát triển nhanh chóng của điện mặt trời và điện gió. Hạ tầng truyền tải, đặc biệt tại các tỉnh có tiềm năng năng lượng lớn chưa được đầu tư đồng bộ, dẫn đến tình trạng nghẽn mạch. Theo báo cáo của EVN, có thời điểm hơn 30% sản lượng điện mặt trời ở Ninh Thuận cũ (nay là tỉnh Khánh Hòa) phải cắt giảm do lưới điện không thể hấp thụ hết công suất(11). Khi sản lượng điện bị cắt giảm, doanh nghiệp không chỉ mất doanh thu mà còn khó khăn trong việc trả nợ ngân hàng, đặc biệt với các khoản vay thương mại dài hạn.

Năng lực quản trị ESG tại nhiều doanh nghiệp Việt Nam vẫn chưa đạt mức yêu cầu để chuyển từ cam kết sang hành động có hiệu quả. Nhiều khảo sát cho thấy, mặc dù tỷ lệ doanh nghiệp “cam kết” với ESG khá cao, song vẫn có khoảng cách lớn giữa cam kết và năng lực thực thi. Khảo sát và báo cáo truyền thông ghi nhận, có đến 60% số doanh nghiệp tại Việt Nam xác định “thiếu kiến thức chuyên môn” là rào cản lớn nhất trong triển khai ESG; 54% số doanh nghiệp “chưa từng tổ chức đào tạo nội bộ về ESG”; và khoảng 38% số doanh nghiệp cho biết, “không có đội/nhân sự lãnh đạo ESG chuyên trách”(12). Sự thiếu hụt này không chỉ nằm ở số lượng mà còn ở chất lượng, ít chuyên gia có kinh nghiệm về kiểm kê khí nhà kính, phân tích chuỗi cung ứng theo tiêu chí môi trường, hoặc soạn thảo chính sách an sinh lao động phù hợp tiến trình chuyển đổi năng lượng. Năng lực quản trị yếu còn làm cho doanh nghiệp khó tiếp cận vốn xanh: nhà đầu tư quốc tế và ngân hàng thường đòi hỏi bằng chứng kiểm kê phát thải, chương trình quản trị rủi ro ESG, các cam kết có thể đo lường được trước khi rót vốn. Khi doanh nghiệp không có hệ thống quản trị, chi phí do nhà đầu tư áp đặt sẽ gia tăng, làm giảm tính khả thi của các dự án năng lượng sạch mà doanh nghiệp muốn triển khai như một phần của CSR. Hệ quả là chỉ những doanh nghiệp có năng lực quản trị tốt, hoặc có liên kết với đối tác nước ngoài mới tận dụng được “dòng vốn xanh”.

Một trong những thách thức quan trọng nhất của quá trình gắn CSR với chuyển đổi năng lượng công bằng tại Việt Nam nằm ở khía cạnh lao động và an sinh xã hội. Bởi lẽ, chuyển đổi năng lượng không đơn thuần thay thế công nghệ, mà kéo theo những dịch chuyển lớn trong cơ cấu việc làm, kỹ năng và thu nhập của người lao động. Sự dịch chuyển lao động khỏi các ngành năng lượng truyền thống đặt ra nguy cơ mất việc làm quy mô lớn. Chẳng hạn, ngành than vẫn đang tạo việc làm trực tiếp cho khoảng 78.000 lao động và gián tiếp cho hàng trăm nghìn lao động trong chuỗi cung ứng, dịch vụ và cộng đồng phụ thuộc. Nếu lộ trình giảm dần nhiệt điện than được triển khai nhanh, nhiều lao động có thể bị mất việc khi chưa có đủ kỹ năng để chuyển đổi sang lĩnh vực mới. Mặc dù năng lượng tái tạo có tiềm năng tạo việc làm mới, song đặc thù công nghệ hiện đại, yêu cầu kỹ năng cao và mật độ lao động thấp hơn, khiến việc hấp thụ lực lượng lao động dư thừa từ ngành than trở nên khó khăn. Các chương trình CSR của doanh nghiệp năng lượng mặc dù đã có một số sáng kiến đào tạo nghề hoặc hỗ trợ sinh kế tại địa phương, song vẫn còn manh mún và thiếu sự phối hợp hệ thống. Điều này khiến công bằng xã hội - một nguyên tắc cốt lõi của chuyển đổi năng lượng công bằng khó được bảo đảm.

Giải pháp thúc đẩy trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp trong tiến trình chuyển đổi năng lượng công bằng

Trên cơ sở thực tiễn CSR tại Việt Nam hiện nay, đồng thời gắn mục tiêu của chuyển đổi năng lượng công bằng, cần đề ra nhiều giải pháp cụ thể hơn để thúc đẩy trách nhiệm xã hội doanh nghiệp:

Thứ nhất, xây dựng khung tài chính xanh đồng bộ. Việt Nam có thể thiết lập Quỹ Chuyển đổi công bằng với sự tham gia của Nhà nước, doanh nghiệp và đối tác quốc tế. Quỹ này không chỉ tài trợ cho các dự án năng lượng sạch, mà còn hỗ trợ đào tạo lại cho người lao động và chuyển đổi sinh kế, việc làm ở các vùng phụ thuộc vào nguồn năng lượng truyền thống. Song song, cần phát triển công cụ tài chính hỗn hợp và cơ chế bảo lãnh tín dụng xanh nhằm giúp doanh nghiệp nhỏ và vừa tiếp cận vốn với chi phí hợp lý hơn. Ngoài ra, việc thúc đẩy thị trường trái phiếu xanh và tín chỉ carbon trong nước sẽ mở rộng thêm nguồn vốn dài hạn, tăng tính minh bạch và hội nhập quốc tế.

Thứ hai, ổn định thể chế, minh bạch chính sách và khung pháp lý về CSR/ESG. Để khuyến khích doanh nghiệp đầu tư lâu dài, tính ổn định chính sách đóng vai trò đặc biệt quan trọng. Nhà nước cần ban hành lộ trình rõ ràng về báo cáo ESG bắt buộc, bắt đầu từ doanh nghiệp niêm yết, sau đó mở rộng dần sang khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và doanh nghiệp vừa và nhỏ. Các báo cáo này nên được thực hiện theo tiêu chuẩn quốc tế và có cơ chế bảo đảm bởi bên thứ ba để hạn chế tình trạng “tẩy xanh” (greenwashing). Đồng thời, xây dựng cơ chế giá điện và hợp đồng mua bán điện minh bạch, ổn định nhằm giảm rủi ro cho nhà đầu tư. Một chính sách giá rõ ràng và cơ chế đấu thầu công khai sẽ khuyến khích dòng vốn tư nhân, nâng cao niềm tin của cộng đồng doanh nghiệp quốc tế.

Thứ ba, ưu tiên nâng cấp lưới điện truyền tải, đặc biệt ở các hành lang từ khu vực có tiềm năng điện gió và điện mặt trời lớn. Cùng với đó, các chính sách khuyến khích đầu tư hệ thống lưu trữ năng lượng và ứng dụng lưới điện thông minh cần được thúc đẩy. Những giải pháp này góp phần giảm tình trạng cắt giảm công suất, nâng cao tính linh hoạt và ổn định của hệ thống điện quốc gia, tạo điều kiện để doanh nghiệp yên tâm mở rộng đầu tư CSR trong lĩnh vực năng lượng sạch.

Thứ tư, xây dựng chính sách an sinh và hỗ trợ lao động toàn diện. Trước tình trạng lao động trong ngành than, dầu khí và các ngành liên quan có nguy cơ bị ảnh hưởng khi Việt Nam giảm dần sử dụng nhiên liệu hóa thạch, cần đề ra chính sách đào tạo lại nghề, hỗ trợ chuyển đổi việc làm và trợ cấp thu nhập trong giai đoạn chuyển tiếp. Ngoài ra, các doanh nghiệp triển khai dự án năng lượng tái tạo cần phối hợp với chính quyền địa phương và tổ chức xã hội để tham vấn cộng đồng ngay từ giai đoạn lập kế hoạch, nhằm giảm thiểu xung đột và tăng sự đồng thuận xã hội đối với dự án.

Thứ năm, tăng cường quản trị và minh bạch thông tin. Việt Nam cần xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về khí nhà kính và báo cáo ESG, cho phép doanh nghiệp dễ dàng nộp báo cáo và công chúng có thể giám sát. Các yêu cầu về kiểm toán và xác thực báo cáo ESG bởi bên thứ ba cần được triển khai để bảo đảm độ tin cậy. Điều này sẽ giúp nâng cao tín nhiệm của doanh nghiệp trên thị trường vốn quốc tế, tạo áp lực buộc các doanh nghiệp trong nước phải nâng cao năng lực quản trị và thực hiện CSR thực chất hơn./.

--------------------

(1) Porter, M. E., & Kramer, M. R. (2006): Strategy & society: The link between competitive advantage and corporate social responsibility (tạm dịch: Mối quan hệ giữa lợi thế cạnh trang và trách nhiệm xã hội doanh nghiệp), Harvard Business Review, 84(12), pp. 78 - 85
(2) Jenkins, K., Sovacool, B. K., & McCauley, D. (2018): Humanizing sociotechnical transitions through energy justice: An ethical framework for global transformative change (tạm dịch: Nhân bản hóa các quá trình chuyển đổi xã hội - kỹ thuật thông qua công bằng năng lượng: Khung khổ đạo đức cho sự chuyển đổi mang tính toàn cầu), Energy Policy, 117, pp. 66 - 74
(3) Phạm Duy: EVN dự kiến đầu tư 109.000 tỷ đồng để xây dựng lưới điện, Báo điện tử VTC News, ngày 5-3-2025, https://vtcnews.vn/evn-du-kien-dau-tu-109-000-ty-dong-de-xay-dung-luoi-dien-ar929719.html
(4) Anh Nguyễn: PV GAS sẽ thử nghiệm sản xuất và cung cấp hydrogen xanh quy mô nhỏ, Thông tấn xã Việt Nam, ngày 11-1-2025, https://bnews.vn/pv-gas-se-thu-nghiem-san-xuat-va-cung-cap-hydrogen-xanh-quy-mo-nho/359869.html
(5) Hhoa: EVN: Đổi mới, sáng tạo trong công tác đào tạo phát triển nguồn nhân lực, ngày 10-6-2022, https://evn.com.vn/d6/news/EVN-Doi-moi-sang-tao-trong-cong-tac-dao-tao-phat-trien-nguon-nhan-luc-0-12-30644.aspx
(6) Xem: Báo cáo phát triển bền vững PVN 2022, https://pvn.vn/DataStore/Documents/2024/BC%20HSE/20231119_BC%20PTBV%20PVN_2022_FINAL%20-%20Copy.pdf
(7) Bangalore, M., Smith, A., & Veldkamp, T. (2019): Exposure to floods, climate change, and poverty in Vietnam (tạm dịch: Tiếp xúc với lũ lụt, biến đổi khí hậu và nghèo đói ở Việt Nam), Economics of Disasters and Climate Change, 3(1), pp. 79 - 99
(8) Ngọc Quang:  T&T Group hợp tác sản xuất pin lưu trữ năng lượng và phát triển công nghiệp phụ trợ năng lượng, Tạp chí Trẻ em Việt Nam, ngày 8-11-2024, https://treemvietnam.net.vn/tt-group-hop-tac-san-xuat-pin-luu-tru-nang-luong-va-phat-trien-cong-nghiep-phu-tro-nang-luong-d5620.html
(9) Hải Anh: Nestlé Việt Nam đầu tư thêm 75 triệu USD vào nhà máy ở Đồng Nai, Báo Thanh Niên, ngày 6-5-2025, https://thanhnien.vn/nestle-viet-nam-dau-tu-them-75-trieu-usd-vao-nha-may-o-dong-nai-185250506184318235.htm
(10) WorldBank: Vietnam country climate and development report: Reconciling economic successes with climate risks (tạm dịch: Báo cáo quốc gia về khí hậu và phát triển Việt Nam: Hài hòa thành tựu kinh tế với rủi ro khí hậu), July 14, 2022,  https://www.worldbank.org/en/news/video/2022/07/14/vietnam-country-climate-and-development-report-reconciling-economic-successes-with-climate-risks
(11) Nguyễn Thủy: Quá tải điện mặt trời khu vực Ninh Thuận, Bình Thuận: Thiệt hại không chỉ của riêng nhà đầu tư điện mặt trời, ngày 5-7-2019, https://www.evn.com.vn/d6/news/Qua-tai-dien-mat-troi-khu-vuc-Ninh-Thuan-Binh-Thuan-Thiet-hai-khong-chi-cua-rieng-nha-dau-tu-dien-mat-troi-0-12-23964.aspx
(12) Đỗ Kiều: Đang có khoảng trống lớn về nhân lực ESG, Tạp chí điện tử Kinh doanh, ngày 24-6-2025, https://vnbusiness.vn/quan-tri/dang-co-khoang-trong-lon-ve-nhan-luc-esg-1107660.html