TCCS - Trong những năm qua, nhất là từ giai đoạn 2006 - 2010, trên địa bàn các xã đặc biệt khó khăn có khoảng 20 nhóm chính sách với khoảng trên 30 chương trình mục tiêu quốc gia và dự án đang được triển khai thực hiện liên quan đến xóa đói, giảm nghèo, với nội dung phát triển kết cấu hạ tầng, hỗ trợ sản xuất, nâng cao đời sống cho nhân dân. Do đó bộ mặt kinh tế - xã hội ở những vùng này có nhiều tiến bộ đáng kể.

Qua báo cáo của Chính phủ, các bộ, ngành có liên quan và các địa phương cho thấy, tổng vốn đầu tư các dự án, các chương trình mục tiêu quốc gia cho địa bàn các xã đặc biệt khó khăn khoảng 65.841,776 tỉ đồng (2006 - 2010), trong đó có hơn 59.000 tỉ đồng từ ngân sách nhà nước. Tùy theo đặc điểm từng vùng, từng khu vực mà số lượng các chương trình mục tiêu quốc gia, các dự án liên quan đến xóa đói, giảm nghèo đang được thực hiện trên địa bàn các xã đặc biệt khó khăn của các tỉnh khác nhau, trong giai đoạn 2006 - 2010 có khoảng từ 10 đến 25 chương trình, dự án trên mỗi tỉnh. Một số chương trình, dự án đáng chú ý là:

Chương trình hỗ trợ giảm nghèo nhanh và bền vững đối với 61 huyện nghèo theo Nghị quyết số 30a/2008/NQ-CP đối với 61 huyện nghèo từ năm 2009 đến 2020, năm 2009 - 2010 Chính phủ đã bố trí 3.103 tỉ đồng. Các huyện nghèo đã tổ chức khởi công xây dựng 52.321/77.311căn nhà (đạt 67,7% kế hoạch); đã có 66.176 ha rừng được giao khoán khoanh nuôi, bảo vệ cho hộ nghèo; khoảng 2.400 lao động ở các huyện nghèo đăng ký đi làm việc ở nước ngoài, có 1.800 người đã trúng sơ tuyển đang được các doanh nghiệp phối hợp với địa phương tổ chức hỗ trợ đào tạo nghề, ngoại ngữ, giáo dục định hướng, trong đó đang làm thủ tục cho hơn 1.500 người, đến nay đã có 293 lao động xuất cảnh.

Chính sách hỗ trợ đất sản xuất, đất ở, nhà ở và nước sinh hoạt cho hộ đồng bào dân tộc thiểu số nghèo, đời sống khó khăn theo Quyết định số 134/2004/QĐ-TTg, đã đạt kết quả tốt. Trong 4 năm (2004 - 2008), Chính phủ đã bố trí 4.473,9 tỉ đồng, hỗ trợ 373.400 nhà ở cho hộ nghèo dân tộc thiểu số, đạt 111% kế hoạch; 1.552 ha đất ở cho 71.713 hộ, đạt 82% kế hoạch; 27.763 ha đất sản xuất cho 83.563 hộ, đạt 48% kế hoạch. Năm 2009, Chính phủ quyết định kéo dài thời gian thực hiện chính sách với tổng kinh phí bổ sung là 5.828 tỉ đồng, trong đó vốn đầu tư, hỗ trợ: 3.508 tỉ đồng và vốn vay: 2.320 tỉ đồng. Vùng đồng bằng sông Cửu Long được thụ hưởng chính sách hỗ trợ giải quyết đất ở, đất sản xuất và giải quyết việc làm giai đoạn 2008 - 2010 với nhu cầu vốn trên 1.629 tỉ đồng. Năm 2009 - 2010 Chính phủ đã bố trí 400 tỉ đồng hỗ trợ trực tiếp và 500 tỉ đồng cho đồng bào vay.

Chính sách hỗ trợ di dân thực hiện định canh, định cư bước đầu phát huy được tác dụng, Quyết định số 33/2007/QĐ-TTg với mục tiêu hỗ trợ cho đồng bào dân tộc thiểu số có nơi ở ổn định, phát triển sản xuất, xóa đói, giảm nghèo; góp phần bảo vệ rừng, bảo vệ môi trường sinh thái và giữ gìn an ninh - chính trị, trật tự an toàn xã hội. Thời gian thực hiện từ năm 2008 đến 2012 trên địa bàn 350 xã thuộc Chương trình 135 của 35 tỉnh, tổng nhu cầu vốn 2.717 tỉ đồng. Giai đoạn 2008 - 2010 Chính phủ đã bố trí trên 573 tỉ đồng, đạt 21,08% kế hoạch. Đến nay đã giải ngân được 540 tỉ đồng, đạt 94,2% vốn giao và đạt 19,9% nhu cầu vốn đã được phê duyệt.

Chính sách cho vay vốn phát triển sản xuất đối với hộ đồng bào dân tộc thiểu số đặc biệt khó khăn với lãi suất 0% trong thời hạn 5 năm theo Quyết định số 32/2007/QĐ-TTg và Quyết định số 126/2008/QĐ-TTg: Giai đoạn 2007 - 2010 có 275.365 hộ thuộc đối tượng vay vốn (100% số hộ dân tộc thiểu số đặc biệt khó khăn đều ở xã, thôn bản thuộc Chương trình 135), với nhu cầu kinh phí 1.376,8 tỉ đồng, đến 31-12-2009 ngân sách trung ương đã bố trí 376,929 tỉ đồng, đạt 27,4% kế hoạch vốn.

Chương trình xây dựng trung tâm cụm xã cũng có tiến bộ: Năm 2009 - 2010 tiếp tục hoàn thiện 290 trung tâm cụm xã dở dang và xây dựng mới 35 trung tâm cụm xã ở vùng cao, biên giới, với tổng nhu cầu vốn là 1.368 tỉ đồng. Năm 2009, Chính phủ đã bố trí 600 tỉ đồng, các địa phương đã xây dựng, hoàn thiện 117 trung tâm, với 342 công trình hạ tầng. Chính sách trợ giá, trợ cước đối với vùng dân tộc và miền núi cũng được thực hiện khá tốt: Trong giai đoạn 2006 - 2009, đã bố trí 1.291,5 tỉ đồng để thực hiện trợ giá, trợ cước giống, phân bón, muối iốt, dầu hỏa, giấy vở học sinh... cho khu vực miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Đến nay các địa phương đã triển khai thực hiện bảo đảm đúng nội dung, đối tượng hỗ trợ với kinh phí 1.201,9 tỉ đồng, đạt 93% kế hoạch giao.

Chính sách hỗ trợ hộ nghèo về nhà ở theo Quyết định số 167/2008/QĐ-TTg: Kế hoạch trong giai đoạn 2009 - 2012 sẽ thực hiện hỗ trợ cho khoảng 500.000 hộ nghèo có khó khăn về nhà ở đang cư trú tại khu vực nông thôn trên cả nước. Kết quả sau một năm triển khai, đã hoàn thành 88.153/126.411 căn nhà, đạt 70% kế hoạch năm. Đáng quan tâm là việc đầu tư xây dựng đường giao thông nông thôn trên địa bàn các xã đặc biệt khó khăn cũng được chú ý bằng các nguồn vốn hỗ trợ từ ngân sách trung ương, địa phương (là chủ yếu) và huy động một phần đóng góp của nhân dân với tổng vốn đầu tư là 36.043,437 tỉ đồng. Bằng nguồn vốn trái phiếu Chính phủ, Bộ Giao thông Vận tải đã bố trí 486 dự án đường đến trung tâm xã, đến hết năm 2009 đã hoàn thành đường tới 259 xã. Chương trình rà soát quy hoạch xây dựng nông thôn mới theo Quyết định số 193/QĐ-TTg cũng đồng thời được thực hiện: Tổng vốn đầu tư cho Chương trình là 320,785 tỉ đồng, trong đó đầu tư trên địa bàn xã, thôn bản thuộc Chương trình 135 là 237,130 tỉ đồng, chiếm 73,92% tổng vốn của Chương trình. Các tỉnh đã tập trung thực hiện các nhiệm vụ: Sắp xếp, bố trí dân cư các xã đặc biệt khó khăn, đầu tư lập dự án sắp xếp dân cư vùng thiên tai, sạt lở, biên giới, di dân tập trung, xen ghép, xây dựng các khu tái định cư. Các dự án xây dựng công trình thủy lợi cũng được quan tâm. Tổng vốn thực hiện các dự án xây dựng công trình thủy lợi là 2.875,9 tỉ đồng, trong đó đầu tư trên địa bàn các xã thuộc Chương trình 135 là 685 tỉ đồng, chiếm 28% tổng vốn. Các công trình bao gồm: Hồ chứa nước, trạm bơm, kiên cố hóa kênh mương để phục vụ phòng, chống lụt bão và tưới tiêu phục vụ sản xuất nông, lâm nghiệp.

Chính sách y tế cho các xã nghèo, vùng nghèo đã được quan tâm: Cùng các nguồn vốn đầu tư khác, Bộ Y tế được Chính phủ giao thực hiện đầu tư cho y tế tuyến tỉnh, huyện, xã trên địa bàn các xã đặc biệt khó khăn thuộc Chương trình 135. Đến nay, cơ sở y tế các xã thuộc Chương trình 135 được cải thiện về cơ sở vật chất và trang thiết bị, đáp ứng nhu cầu chăm sóc sức khỏe nhân dân trong vùng. Với 100% số xã có trạm y tế, trong đó có 41,2% số xã có trạm y tế đạt chuẩn quốc gia, 95% số người nghèo các xã thuộc Chương trình 135 được cấp thẻ bảo hiểm y tế theo Quyết định số 139 của Thủ tướng Chính phủ. Ngoài ra, việc hỗ trợ đầu tư theo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ đối với các xã biên giới với kinh phí hàng nghìn tỉ đồng, tập trung cho rà, phá bom, mìn, vật nổ để thực hiện kế hoạch sắp xếp ổn định dân cư; tập trung bố trí vốn thực hiện các công trình chuyển tiếp trong các lĩnh vực hạ tầng thiết yếu. Bên cạnh các nguồn vốn huy động trong nước, Chính phủ đã huy động thêm vốn đầu tư của các tổ chức quốc tế và các tổ chức phi chính phủ như:

Các chương trình, dự án ODA đầu tư trên địa bàn xã thuộc Chương trình 135 giai đoạn 2006 - 2010, với tổng mức vốn là 536,41 triệu USD, tương đương khoảng 10.200 tỉ đồng, bao gồm cả vốn đã lồng ghép hỗ trợ ngân sách của Chương trình 135 (nếu không bao gồm nguồn này thì tổng nguồn vốn ODA là 345,7 triệu USD, tương đương 6.500 tỉ đồng), nguồn vốn này được triển khai thông qua các dự án về xóa đói, giảm nghèo đa mục tiêu, phát triển nông nghiệp, nông thôn. Địa bàn các dự án ODA triển khai thực hiện là các địa phương khó khăn, vùng dân tộc, tập trung nhiều xã thuộc Chương trình 135 giai đoạn II, phù hợp với mục tiêu của các nhà tài trợ và ưu tiên huy động vốn của Chính phủ Việt Nam.

Các dự án của NGO (tổ chức phi chính phủ) thực hiện trên địa bàn các xã thuộc Chương trình 135 giai đoạn 2006 - 2010: đã có 64 dự án của các nhà tài trợ NGO được triển khai với tổng mức vốn là 52,2 triệu USD, tương đương 900 tỉ đồng, nguồn vốn của các dự án NGO không lớn nhưng đã tập trung vào các địa bàn khó khăn và các lĩnh vực bức xúc nhất trong xóa đói, giảm nghèo, phát triển kết cấu hạ tầng nông thôn.

Có thể khẳng định từ năm 2006 đến nay, việc thực hiện Chương trình 135 giai đoạn II và các chương trình mục tiêu quốc gia, các dự án khác trên địa bàn các xã đặc biệt khó khăn, bước đầu đã giải quyết được tương đối đồng bộ kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, như hệ thống giao thông nông thôn, thủy lợi nhỏ, điện, trường học, trạm y tế, nước sinh hoạt, phát thanh truyền hình... đáp ứng được nhu cầu tối thiểu cho phát triển sản xuất và ổn định đời sống nhân dân.

Sản xuất nông nghiệp của vùng đặc biệt khó khăn có bước phát triển, nhờ áp dụng giống mới, đưa tiến bộ khoa học, kỹ thuật vào sản xuất, năng suất cây trồng, vật nuôi tăng lên; nhiều nơi đồng bào dân tộc thiểu số đã từng bước tiếp nhận được kỹ thuật sản xuất mới, tiên tiến, thay thế dần cho tập quán sản xuất cũ, hiệu quả kinh tế thấp.

Qua giám sát của Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho thấy, đại đa số các xã đặc biệt khó khăn, người dân có thu nhập bình quân từ 3,5 triệu đồng/năm trở lên; tỷ lệ hộ nghèo hằng năm giảm 4%, cao hơn bình quân cả nước 2 lần; tỉnh nào cũng có những điển hình nông dân sản xuất giỏi; trình độ, năng lực quản lý các chương trình của cán bộ cấp xã và thôn bản được nâng lên một bước, năng lực của cộng đồng trong việc tham gia các hoạt động nói chung và hoạt động giám sát nói riêng được cải thiện đáng kể; các lĩnh vực về văn hóa, giáo dục, y tế đã có bước chuyển biến tích cực. Những nơi đoàn giám sát đến làm việc đều có đủ trường lớp cho học sinh học tập, các xã đều có trên 90% số học sinh tiểu học trong độ tuổi đến trường; cơ sở y tế các xã thuộc Chương trình 135 được cải thiện, đáp ứng nhu cầu chăm sóc sức khỏe nhân dân trong vùng. Các công trình và thiết chế văn hóa ở thôn, bản đã góp phần làm sống động đời sống văn hóa, tinh thần cho đồng bào ở vùng đặc biệt khó khăn.

Đạt được kết quả đó là do có sự lãnh đạo đúng đắn của Trung ương Đảng, sự giám sát tích cực của Quốc hội, sự chỉ đạo, điều hành quyết liệt của Chính phủ, công tác tổ chức thực hiện của các bộ, ngành, địa phương, cùng với sự đồng thuận, hưởng ứng tham gia tích cực của nhân dân đã phát huy được hiệu quả tổng hợp, thiết thực của các chương trình, dự án.

Việc quản lý lồng ghép các chương trình dự án với Chương trình 135 giai đoạn II rất khó thực hiện do cơ chế quản lý, cơ chế tài chính của mỗi chương trình, dự án khác nhau và do có nhiều ngành phụ trách, quản lý.

Tuy nhiên vẫn còn một số tồn tại, hạn chế như: Nhiều địa phương chưa chú ý đến quy hoạch, sắp xếp bố trí dân cư, bố trí sản xuất nông, lâm nghiệp, quy hoạch sử dụng đất... Hiện còn nhiều xã đặc biệt khó khăn, dân cư ở phân tán, còn một bộ phận dân cư du canh, du cư và tự do phá rừng làm nương rẫy; tập quán lao động, sản xuất của đồng bào ở vùng này chậm được thay đổi, sản xuất thuần nông tự sản, tự tiêu vẫn còn phổ biến, chậm thích ứng với cơ chế kinh tế thị trường; tỷ lệ hộ nghèo giảm nhanh, nhưng thiếu bền vững, tỷ lệ hộ nghèo và cận nghèo khá lớn. Nếu tính theo chuẩn nghèo mới hoặc bị ảnh hưởng của thiên tai, mất mùa thì tỷ lệ hộ nghèo vùng này sẽ trở lại rất cao.

Nhiều bộ, ngành chưa có văn bản hướng dẫn địa phương quản lý, lồng ghép nguồn vốn của các chương trình, dự án: Việc triển khai và sử dụng nguồn vốn của các địa phương không kịp thời, tỷ lệ giải ngân thấp, cá biệt có địa phương phân bổ vốn sai nội dung, mục đích, đối tượng thụ hưởng; công tác thanh tra, kiểm tra việc thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia, các dự án và việc đánh giá chất lượng xây dựng công trình, hiệu quả đầu tư của các bộ, ngành trung ương cũng như chính quyền địa phương các cấp còn hạn chế...

Qua giám sát chuyên đề “Việc thực hiện xóa đói, giảm nghèo qua Chương trình 135 giai đoạn II (2006 - 2010); việc quản lý, lồng ghép các chương trình mục tiêu quốc gia và các dự án liên quan trực tiếp đến xóa đói, giảm nghèo trên địa bàn các xã đặc biệt khó khăn”, Ủy ban Thường vụ Quốc hội nhận thấy: xóa đói, giảm nghèo là một chương trình lớn, là chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà nước. Xóa đói, giảm nghèo trên địa bàn các xã đặc biệt khó khăn là chính sách đặc thù, phải được tính toán kỹ và toàn diện, có bước đi thích hợp và bảo đảm tính bền vững. Vì vậy, Ủy ban Thường vụ Quốc hội kiến nghị một số vấn đề sau:

Quốc hội tiếp tục có chủ trương đầu tư phát triển kinh tế - xã hội các xã, thôn, bản đặc biệt khó khăn giai đoạn 2011 - 2015. Trong phê duyệt ngân sách hằng năm, Quốc hội quan tâm giải quyết vốn theo hướng ưu tiên cho các chương trình đầu tư phát triển kinh tế - xã hội miền núi, vùng dân tộc thiểu số và các địa bàn đặc biệt khó khăn, giao cho Hội đồng Dân tộc và các ủy ban của Quốc hội tăng cường phối hợp, tổ chức giám sát thực hiện có hiệu quả các chương trình mục tiêu quốc gia, các chương trình, dự án liên quan trực tiếp đến xóa đói, giảm nghèo bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước trên địa bàn miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số nói chung và địa bàn đặc biệt khó khăn nói riêng.

Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ sớm chỉ đạo tổng kết đánh giá việc thực hiện Chương trình 135 giai đoạn II và các chương trình, dự án trên địa bàn đặc biệt khó khăn, từ đó xây dựng một chương trình xóa đói, giảm nghèo phát triển toàn diện, bền vững cho giai đoạn tiếp theo. Nghiên cứu, xây dựng, ban hành cơ chế, chính sách khuyến khích đối với các xã hoàn thành mục tiêu ra khỏi diện đầu tư của Chương trình 135 giai đoạn II. Sớm ban hành chuẩn nghèo mới, phù hợp với nhu cầu sinh hoạt tối thiểu của xã hội ở các vùng khác nhau để làm cơ sở điều tra, thống kê, đánh giá mức độ nghèo, khoảng cách giàu nghèo ở nước ta hiện nay và hoạch định chính sách cho giai đoạn tới. Chăm lo công tác đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực tổ chức thực hiện nhiệm vụ cho đội ngũ cán bộ xã, thôn, bản. Có chính sách và chế độ đãi ngộ để thu hút lực lượng cán bộ trẻ, số sinh viên tốt nghiệp các trường đại học, cao đẳng về công tác ở vùng đặc biệt khó khăn. Chỉ đạo rà soát các chương trình mục tiêu quốc gia, các dự án khác đầu tư trên địa bàn đặc biệt khó khăn, sớm khắc phục sự trùng lắp các nội dung và công trình xây dựng. Xây dựng và ban hành quy chế về quản lý, lồng ghép, sử dụng vốn ngân sách nhà nước của các chương trình mục tiêu quốc gia, các chương trình, dự án trên cùng một địa bàn.

Các địa phương khẩn trương xây dựng và phê duyệt đề án quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội các xã đặc biệt khó khăn, bảo đảm sắp xếp, bố trí dân cư hợp lý; tập trung lãnh đạo, chỉ đạo để đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng, đầu tư phát triển sản xuất có hiệu quả. Tiếp tục bố trí và huy động nguồn vốn ở địa phương, tạo điều kiện cho các xã, thôn bản đặc biệt khó khăn xây dựng trung tâm xã; tập trung hỗ trợ giúp dân phát triển sản xuất, thay đổi tập quán sản xuất cũ lạc hậu. Chỉ đạo thực hiện tốt công tác điều tra, bình xét, thống kê, rà soát hộ nghèo. Việc phân loại, xác định hộ nghèo phải đồng thời với việc phân loại, xác định nguyên nhân nghèo đói để có chính sách hỗ trợ thích hợp; tách đối tượng bảo trợ xã hội ra khỏi diện hộ nghèo. Tiếp tục thực hiện công tác giáo dục, tuyên truyền về mục tiêu, ý nghĩa các chính sách của Đảng và Nhà nước nhằm không ngừng nâng cao nhận thức đối với đồng bào dân tộc thiểu số. Khắc phục tư tưởng trông chờ, ỷ lại sự giúp đỡ của Nhà nước trong nhân dân và cán bộ cơ sở. Thực hiện công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát việc thực hiện các chương trình, dự án giảm nghèo trên địa bàn các xã thuộc Chương trình 135. Tăng cường hoạt động giám sát của các đoàn đại biểu Quốc hội và hội đồng nhân dân các cấp, bởi chỉ có như vậy thì mục tiêu của chúng ta là xóa đói giảm nghèo ở các xã đặc biệt khó khăn mới sớm thành công./.