Cải cách nền hành chính nhà nước giai đoạn 2011 - 2015

Hà Quang Trường TS, Bộ Nội vụ
21:28, ngày 23-06-2015

TCCS - Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2011 - 2020 đã đi qua nửa chặng đường. Đánh giá đúng mức việc thực hiện các nội dung và mục tiêu của Chương trình trong thời gian qua, trên cơ sở đó khẳng định những kết quả đã đạt được, chỉ rõ những tồn tại, hạn chế, nguyên nhân và rút ra những bài học kinh nghiệm của quá trình tổ chức thực hiện sẽ góp phần quan trọng hoàn thành toàn bộ nội dung của cả Chương trình trong giai đoạn 2011 - 2020.

1- Thực hiện Nghị quyết Đại hội XI của Đảng, tháng 11-2011, Chính phủ đã ban hành Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2011 - 2020, với hệ thống các giải pháp và mục tiêu cụ thể. Chương trình gồm 6 nội dung là: cải cách thể chế; cải cách thủ tục hành chính; cải cách tổ chức bộ máy hành chính nhà nước; xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức; cải cách tài chính công; hiện đại hóa hành chính. Đây là một chương trình có tính chiến lược, định hướng và chỉ đạo toàn diện cho công tác cải cách hành chính nhà nước trong thời gian 10 năm và được chia làm 2 giai đoạn - giai đoạn I (2011 - 2015) và giai đoạn II (2016 - 2020).

Những thành tựu cải cách hành chính đạt được trong giai đoạn 2011 - 2015:

Một là, tiếp tục góp phần hoàn thiện hệ thống thể chế, đặc biệt là thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN). Cụ thể là mối quan hệ giữa Nhà nước với nhân dân và nền kinh tế thị trường đã được định hình. Nguyên tắc “sự can thiệp, điều tiết của Chính phủ khi cần thiết không vượt qua giới hạn khách quan của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” tiếp tục được cụ thể hóa ở nhiều cấp độ.

Chính phủ đã chú trọng công tác xây dựng các dự thảo luật, pháp lệnh trình Quốc hội và ban hành một số lượng lớn nghị định hướng dẫn thi hành luật, pháp lệnh thể hiện rõ các quan điểm, chủ trương của Đảng về phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN. Với việc triển khai thực hiện Hiến pháp năm 2013, các bộ, ngành, địa phương đã tích cực rà soát trên 100.000 văn bản quy phạm pháp luật các loại. Bước đầu kiến nghị sửa đổi, bổ sung, thay thế, bãi bỏ hoặc ban hành mới 282 văn bản, nhằm bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp, tính đồng bộ, khả thi, đặc biệt là, bảo đảm sự phân định trách nhiệm, thẩm quyền theo chức năng giữa chủ thể quản lý hành chính là Nhà nước với các chủ thể dân sự, kinh tế, thương mại. Làm rõ các vấn đề về sở hữu, tạo bình đẳng giữa các thành phần kinh tế. Khuyến khích thực hiện xã hội hóa các dịch vụ công.

Chính phủ đã rà soát lại chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của từng cơ quan, đơn vị, của người đứng đầu Chính phủ, từng bộ, ngành từ Trung ương đến địa phương. Tiếp tục xây dựng, sửa đổi, bổ sung các văn bản, như Luật Tổ chức Chính phủ, Luật Tổ chức chính quyền địa phương. Đã ban hành các nghị định quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ; các văn bản về tổ chức và hoạt động của ủy ban nhân dân và các cơ quan chuyên môn của ủy ban nhân dân ở cấp tỉnh, huyện,...

Quy trình xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật trong phạm vi trách nhiệm của Chính phủ được bảo đảm. Cùng với việc công bố các dự thảo luật theo quy định của Luật Ban hành các văn bản quy phạm pháp luật năm 2009, các bộ, cơ quan ngang bộ đã đánh giá tác động của văn bản. Đây là một bước tiến quan trọng góp phần vào quá trình hoàn thiện hệ thống thể chế của Nhà nước ta.

Có thể nói, những kết quả của quá trình cải cách thể chế đã góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Nước ta cũng đã từng bước vượt qua khó khăn của khủng hoảng kinh tế những năm 2011 - 2012 và có những tăng trưởng trở lại từ giữa năm 2014 đến nay.

Hai là, góp phần quan trọng vào tăng trưởng kinh tế nhờ đơn giản thủ tục cấp phép đầu tư, đất đai, xây dựng, sở hữu nhà ở, thuế, hải quan, xuất nhập khẩu, y tế, giáo dục, lao động, bảo hiểm, khoa học công nghệ... qua đó thu hút các nguồn vốn trong và ngoài nước, tạo đà phục hồi, phát triển doanh nghiệp ở các ngành sản xuất và dịch vụ. Luật Đầu tư năm 2014, Luật Doanh nghiệp năm 2014, có hiệu lực từ ngày 01-7-2015, thực hiện nguyên tắc hiến định về quyền tự do đầu tư kinh doanh của công dân trong các ngành, nghề mà luật không cấm đã trực tiếp loại bỏ hàng loạt thủ tục hành chính, giấy phép không cần thiết. Luật Đầu tư cũng quy định rõ, các điều kiện đầu tư kinh doanh phải được quy định tại các luật, pháp lệnh, nghị định và điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên.

Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã có những chỉ đạo quyết liệt nhằm rà soát, hợp lý hóa trình tự giải quyết công việc, xóa bỏ các quy định chồng chéo, đơn giản hóa các thủ tục hành chính, đặc biệt trong lĩnh vực thuế và hải quan. Bảo đảm thực hiện cam kết trong các hiệp định thương mại tự do đã ký, cũng như chuẩn bị cho quá trình gia nhập cộng đồng kinh tế chung ASEAN vào năm 2016. Tính đến hết năm 2014, các bộ, ngành đã ban hành theo thẩm quyền hoặc trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ban hành các văn bản quy phạm pháp luật để đơn giản hóa 4.219/4.712 thủ tục hành chính đã được Chính phủ phê duyệt tại 25 nghị quyết chuyên đề (đạt tỷ lệ 89,5%). Đã triển khai thực hiện đề án tổng thể đơn giản hóa thủ tục hành chính, giấy tờ công dân và các cơ sở dữ liệu liên quan đến quản lý dân cư giai đoạn 2013 - 2020. Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành hoặc cho ý kiến chỉ đạo đẩy nhanh tiến độ triển khai thực hiện nhiều đề án có liên quan trực tiếp đến người dân; tập trung chỉ đạo tiếp tục đẩy mạnh thực hiện cơ chế “một cửa”, “một cửa liên thông” tại các cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương, đặc biệt trong thực hiện thủ tục hành chính lĩnh vực đầu tư, đất đai, xây dựng.

Ba là, cải cách hành chính làm cho bộ máy nhà nước tiếp tục được hoàn thiện về tổ chức, chức năng, nhiệm vụ, nâng cao hiệu quả, hiệu lực hoạt động. Đã tiến hành tổng rà soát và ban hành các quy định mới về vị trí, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu tổ chức và biên chế hiện có của các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, ủy ban nhân dân các cấp, các cơ quan chuyên môn thuộc ủy ban nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện, các cơ quan, tổ chức khác thuộc bộ máy hành chính nhà nước ở Trung ương và địa phương (bao gồm cả các đơn vị sự nghiệp của Nhà nước). Trên cơ sở đó, thực hiện hợp nhất các tổng cục, cục, vụ; cơ bản không thực hiện cấp phòng trong các đơn vị tham mưu thuộc cơ quan trung ương. Đã kiện toàn các cơ quan chuyên môn thuộc ủy ban nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện theo hướng thu gọn đầu mối, quản lý đa ngành, đa lĩnh vực. Thực hiện nguyên tắc chỉ thành lập tổ chức mới trong trường hợp thật sự cần thiết; không thành lập các tổ chức trung gian.

Phân cấp trung ương - địa phương tiếp tục được đẩy mạnh trên hầu hết các lĩnh vực quản lý, như ngân sách, nhân sự, đất đai, tài nguyên, doanh nghiệp nhà nước, kế hoạch và đầu tư, ban hành văn bản quy phạm pháp luật... Quá trình này đã cho thấy nhiều kết quả tích cực, thúc đẩy tính độc lập, chịu trách nhiệm trong ra quyết định và tổ chức thực hiện của chính quyền địa phương các cấp, giúp cải thiện môi trường kinh doanh chung.

Cùng với việc đẩy mạnh phân cấp, Chính phủ tăng cường giải quyết các vấn đề có tính chiến lược, tiến hành nhiều phương thức và mức độ giám sát cả trực tiếp và gián tiếp từ nhân dân; tăng cường sự tham gia của người dân vào việc giám sát hoạt động quản lý của các cơ quan và cán bộ, công chức nhà nước, vào việc xây dựng chính sách, củng cố tổ chức bộ máy nhà nước.

Hoàn thành việc phân loại đơn vị sự nghiệp công lập để có các hình thức chuyển đổi phù hợp. Triển khai trên diện rộng cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các đơn vị sự nghiệp công lập. Khuyến khích thành lập các tổ chức cung ứng dịch vụ công thuộc các thành phần ngoài nhà nước, nhất là lĩnh vực giáo dục - đào tạo, y tế, khoa học.

Bốn là, công tác xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức trong thời gian qua đã từng bước đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN và hội nhập quốc tế.

Có thể thấy cải cách vừa qua đã tập trung vào xây dựng một đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức có phẩm chất, kỹ năng, nghiệp vụ, có cơ cấu hợp lý trong các cơ quan, tổ chức, đơn vị trên cơ sở của việc xác định vị trí việc làm. Hiện có 12 bộ, ngành và 32 tỉnh, thành phố đã hoàn thành việc xác định danh mục vị trí việc làm gửi Bộ Nội vụ thẩm định.

Chức danh, tiêu chuẩn của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức từng bước được xác định phù hợp hơn. Đến nay, đã có 88 ngạch công chức chuyên ngành thuộc 17 ngành, lĩnh vực đã được Bộ Nội vụ xây dựng, bổ sung mới. Tiêu chuẩn chức vụ lãnh đạo, quản lý từ cấp vụ trở lên cũng được xây dựng mới. Chức danh nghề nghiệp và thay đổi chức danh nghề nghiệp đối với viên chức, trong đó có hướng dẫn cụ thể về khung tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp, đã được quy định cụ thể. Bộ Nội vụ đã cùng các bộ quản lý chức danh nghề nghiệp chuyên ngành ban hành một số bộ tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp, viên chức, như lưu trữ, khoa học và công nghệ, chuyên ngành thể dục thể thao, giáo dục đại học,...

Công tác thi tuyển, thi nâng ngạch công chức đã tập trung vào việc bảo đảm tính khách quan, công bằng. Phương thức tuyển chọn lãnh đạo cấp vụ, cấp sở, cấp phòng được thí điểm đổi mới bước đầu tạo môi trường cạnh tranh, thu hút người có phẩm chất, năng lực tham gia tuyển chọn, được dư luận ủng hộ. Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức được tập trung vào việc nâng cao kiến thức theo cơ chế quản lý mới và kỹ năng làm việc.

Công tác quản lý cán bộ, công chức cũng được phân cấp. Chính quyền địa phương đến cấp huyện được trao thẩm quyền quy hoạch, tuyển dụng, bổ nhiệm, tổ chức, giao nhiệm vụ, đánh giá, thanh tra và kể cả nâng bậc lương, phụ cấp cho cán bộ, công chức làm việc trong các cơ quan, ban, ngành địa phương thuộc phạm vi quản lý. Đã xây dựng và thực hiện chính sách thu hút, phát hiện, trọng dụng và đãi ngộ người có tài năng trong hoạt động công vụ.

Các cải cách tiền lương và các chế độ chính sách khác đối với đội ngũ cán bộ công chức, viên chức được thực hiện theo lộ trình. Nhà nước đã nhiều lần tăng lương cơ bản (tháng 5-2011 là 830.000 đồng, tháng 5-2012 là 1.050.000 đồng, tháng 7-2013 là 1.150.000 đồng). Từ tháng 01-2015, tăng thêm tiền lương bằng 8% mức lương hiện hưởng của cán bộ, công chức, viên chức có hệ số lương từ 2,34 trở xuống. Các chính sách xây dựng và sử dụng nhà công vụ, các yếu tố cơ hội để cán bộ có thể phát huy tài năng và được khen thưởng cho những cố gắng trong công tác tiếp tục được quan tâm, cụ thể hóa.

Năm là, cải cách tài chính công trong thời gian qua đã làm tăng tính hiệu quả của chi tiêu công, hạn chế tham nhũng, lãng phí trong sử dụng ngân sách nhà nước, góp phần tăng cường kỷ luật tài chính, từng bước tăng tính minh bạch và trách nhiệm giải trình trong thực hiện ngân sách. Các khoản chi ưu tiên cho các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội được bảo đảm; giảm thiểu các khoản chi mang tính bao cấp; các thủ tục cấp phát ngân sách được đơn giản hóa; công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát tài chính được tăng cường; bội chi ngân sách và nợ nước ngoài được khống chế.

Về cơ chế tài chính, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 117/2013/NĐ-CP, ngày 07-10-2013, sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 130/2005/NĐ-CP, ngày 17-10-2005 của Chính phủ, quy định chế độ tự chủ, tự chịu trách nhiệm về sử dụng biên chế và kinh phí quản lý hành chính đối với các cơ quan nhà nước, và Nghị định số 16/2015/NĐ-CP, ngày 14-02-2015, thay thế Nghị định số 43/2006/NĐ-CP, về cơ chế tự chủ tài chính tại các đơn vị sự nghiệp công lập.

Về huy động nguồn vốn viện trợ phát triển chính thức (ODA), do được giám sát, sử dụng tương đối hiệu quả nên vẫn tiếp tục thu hút được nguồn vốn ODA lớn. Tuy nhiên, so với giai đoạn trước, Việt Nam cũng đã có những cân nhắc hơn trong sử dụng và tiến tới hạn chế vay vốn ODA. Đối với vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), nhờ những cải cách tích cực và chính sách ưu đãi đầu tư hấp dẫn, Việt Nam tiếp tục thu hút được lượng vốn FDI rất lớn vào lĩnh vực kỹ thuật, công nghệ, dịch vụ tạo ra nguồn thu ngoại tệ quan trọng và thuế từ hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp này.

Sáu là, tăng cường, xây mới các trụ sở làm việc, các tòa nhà trung tâm hành chính với trang thiết bị khá hiện đại, đáp ứng việc thực hiện cơ chế “một cửa”, “một cửa liên thông”, theo yêu cầu của quá trình hội nhập ở nhiều bộ, ngành và địa phương. Ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động của cơ quan nhà nước tiếp tục được đẩy mạnh, nhiều dịch vụ công trực tuyến được triển khai thực hiện. Các cơ sở dữ liệu chuyên ngành được triển khai xây dựng làm cơ sở cho việc triển khai chính phủ điện tử. Các bộ, ngành, địa phương nghiêm túc triển khai thực hiện Quyết định số 19/2014/QĐ-TTg, ngày 5-3-2014, của Thủ tướng Chính phủ, về áp dụng hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn TCVN 9001:2008 vào hoạt động quản lý nhà nước, đã bảo đảm quy trình giải quyết công việc của cơ quan hành chính khoa học, công khai, minh bạch; góp phần nâng cao chất lượng giải quyết công việc, tạo thuận lợi cho đội ngũ công chức trong thực thi nhiệm vụ và tăng cường công tác kiểm tra, giám sát của các cấp lãnh đạo, quản lý đối với kết quả thực hiện nhiệm vụ của công chức và cơ quan hành chính nhà nước.

2- Những kết quả đó cho thấy mặt tích cực của cải cách hành chính 5 năm qua. Song những hạn chế yếu kém cũng bộc lộ không ít, thể hiện ở những điểm cụ thể sau:

- Chưa tạo lập được một hệ thống thể chế đồng bộ, đáp ứng yêu cầu phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN và hội nhập quốc tế. Chất lượng các văn bản luật còn nhiều hạn chế, từ quy trình xây dựng, ban hành đến áp dụng. Văn bản hướng dẫn thi hành luật ban hành chậm, nhiều văn bản mâu thuẫn với chính luật và các quy định của luật khác(1). Việc tập hợp các nội dung biểu hiện đa dạng của sự phát triển kinh tế - xã hội trong sự vận hành của nền kinh tế thị trường vào các chính sách, trong các cơ chế quản lý chậm, làm nảy sinh thêm nhiều lỗ hổng về mặt pháp lý, tạo ra tâm lý bất an trong người dân, doanh nghiệp.

- Thủ tục hành chính có nhiều tiến bộ, rút ngắn quy trình, thời gian cho người dân và doanh nghiệp, nhưng nhìn chung vẫn phức tạp, rườm rà, so với nhiều nước trong khu vực còn có khoảng cách lớn. Tình trạng “giấy phép con” không giảm và xuất hiện nhiều biến tướng của “giấy phép con” ngoài các quy định của pháp luật(2).

- Cơ cấu tổ chức bộ máy hành chính còn nhiều điểm chưa phù hợp với thông lệ quốc tế. Tiến trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước chậm. Chủ trương xã hội hóa dịch vụ công triển khai chưa đồng bộ, có nhiều điểm thực hiện chưa đúng tinh thần, ý nghĩa của xã hội hóa, phát sinh nhiều lệch lạc. Việc chia tách đơn vị hành chính cấp huyện và cơ sở vẫn chưa chấm dứt; biên chế chưa giảm.

- Chất lượng cán bộ, công chức, viên chức còn bất cập, thiếu tính chuyên nghiệp; một bộ phận không nhỏ sa sút về phẩm chất đạo đức, tham nhũng, vô cảm, thiếu trách nhiệm trước yêu cầu chính đáng của người dân. Công tác quản lý quy hoạch, bổ nhiệm, tổ chức, giao nhiệm vụ, đánh giá, thanh tra, kiểm tra thiếu đổi mới, không tạo ra động lực phát triển cho bản thân đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức. Bộ máy không thu hút và giữ được người tài, chưa khắc phục được tình trạng vừa thừa, vừa thiếu nhân lực.

- Hiện đại hóa hành chính được thực hiện chưa đồng bộ, phụ thuộc vào điều kiện của từng bộ, ngành, địa phương. Các quy định về tiêu chuẩn và tạo kết nối trên môi trường điện tử của các cơ quan hành chính nhà nước phục vụ điều hành, xử lý văn bản hành chính, cung cấp dịch vụ công còn thiếu. Mô hình và lộ trình xây dựng chính phủ điện tử ở Việt Nam cũng chưa rõ.

3- Để thực hiện tốt Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước trong giai đoạn 5 năm tới, 2015 - 2020, đòi hỏi phải khắc phục triệt để những hạn chế nêu trên và tập trung vào các phương hướng và giải pháp sau:

Thứ nhất, triển khai thực hiện Hiến pháp năm 2013, thể chế hóa vai trò, chức năng, tổ chức hoạt động của các cơ quan nhà nước ở Trung ương và địa phương trên cơ sở làm rõ các mối quan hệ giữa Nhà nước và nhân dân, giữa Nhà nước và thị trường, giữa Nhà nước và các tổ chức xã hội. Cải cách thể chế kinh tế phải bảo đảm tuân thủ theo các nguyên tắc của cơ chế thị trường, theo thông lệ quốc tế và làm rõ vấn đề sở hữu. Cải cách thể chế về người dân và các tổ chức xã hội phải bảo đảm mở rộng dân chủ, huy động hiệu quả các nguồn lực xã hội cho phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Nhanh chóng ban hành và thực hiện Luật Trưng cầu dân ý, Luật về Hội, Luật Tín ngưỡng, tôn giáo.

Thứ hai, tiếp tục rà soát các loại thủ tục hành chính, bãi bỏ, sửa đổi bổ sung theo hướng tạo thuận tiện cho người dân, doanh nghiệp. Mở rộng thực hiện quy định các thủ tục hành chính, giấy phép phải được quy định tại các văn bản quy phạm pháp luật và điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Có biện pháp để ngăn chặn các biến tướng của giấy phép trái quy định. Đẩy mạnh công khai, minh bạch, thực hiện hiệu quả cơ chế “một cửa”, “một cửa liên thông” hiện đại.

Thứ ba, hoàn thiện vai trò, chức năng, nhiệm vụ của bộ máy hành chính nhà nước cũng như của mỗi cơ quan hành chính (Chính phủ, các bộ, chính quyền địa phương các cấp) theo tinh thần của Hiến pháp năm 2013. Xác định rõ và tăng thẩm quyền, trách nhiệm của Thủ tướng Chính phủ và tập thể Chính phủ; của chủ tịch ủy ban nhân dân và tập thể ủy ban nhân dân. Quy phạm hóa chế độ trách nhiệm của người đứng đầu trong hệ thống cơ quan hành chính. Tiếp tục đẩy mạnh quá trình phân cấp và giao quyền giữa Trung ương và địa phương phù hợp với yêu cầu quản lý nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Tổ chức kiện toàn cấu trúc bộ máy đa ngành, đa lĩnh vực để phát huy sức mạnh tổng hợp.

Thứ tư, triển khai thực hiện tốt cơ chế, chính sách thu hút nhân tài, bắt đầu từ việc tuyển dụng, thi tuyển vào các chức danh lãnh đạo, quản lý đến việc sử dụng, đánh giá và đãi ngộ cán bộ, công chức, viên chức. Xây dựng kỷ luật công vụ, nâng lời hứa và cam kết thực hiện các nhiệm vụ hành chính trở thành những ràng buộc về mặt đạo đức nghề nghiệp. Chú trọng tới giá trị nghề nghiệp, khuyến khích công chức trở thành chuyên gia chứ không chạy theo chức tước; coi trọng thực tài; xóa bỏ tình trạng chạy theo bằng cấp một cách hình thức; không cứng nhắc về tuổi để tránh lãng phí nguồn nhân lực trong quản lý, đồng thời khắc phục tình trạng thiếu hụt cán bộ lãnh đạo, quản lý kế cận ở các cấp, các ngành. Tổ chức đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức trên cơ sở thực hiện kế hoạch tiêu chuẩn hóa, chuyên môn hóa các quy trình hành chính. Đẩy nhanh tiến độ cải cách tiền lương để bảo đảm cuộc sống của cán bộ, công chức, viên chức sống được bằng lương theo mức trung bình của xã hội.

Thứ năm, kiểm soát nghiêm ngặt ngân sách nhà nước chi cho hành chính công và đầu tư công. Tiếp tục thực hiện đổi mới cơ chế tài chính đối với đơn vị hành chính và sự nghiệp theo Nghị định số 130/2005/NĐ-CP, Nghị định số 117/2013/NĐ-CP và Nghị định số 16/2015/NĐ-CP của Chính phủ đã ban hành.

Thứ sáu, tiếp tục đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động của cơ quan nhà nước. Tăng cường thực hiện dịch vụ công trực tuyến ở mức độ 3 và 4 (những mức độ cao nhất). Hoàn thiện các cơ sở dữ liệu chuyên ngành quốc gia. Xác định cụ thể mô hình và lộ trình xây dựng chính phủ điện tử đồng bộ với tiến trình cải cách hành chính nhà nước./.

-----------------------------------------

(1) Theo Báo cáo của Bộ Tư pháp tại Hội nghị tổng kết công tác tư pháp năm 2014 và triển khai nhiệm vụ năm 2015, trong năm 2014 số lượng văn bản quy phạm pháp luật có dấu hiệu trái pháp luật vẫn gia tăng. Bộ Tư pháp cũng đã phát hiện 885 văn bản có dấu hiệu vi phạm các điều kiện về tính hợp hiến, hợp pháp

(2) Theo một kết quả rà soát của Bộ Kế hoạch và Đầu tư được công bố hồi tháng 8-2014, có 895 điều kiện kinh doanh “cấp 1” (giấy phép “cha”) nhưng có tới 2.129 điều kiện “cấp 2” (giấy phép “con”) và 1.745 điều kiện “cấp 3” (giấy phép “cháu”)