Để các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh đứng vững, vươn lên trong sản xuất, kinh doanh
TCCS - Cần phải làm gì để phục hồi sản xuất, kinh doanh của các loại hình doanh nghiệp? Trả lời câu hỏi đó, đòi hỏi nỗ lực của Đảng bộ, chính quyền các cấp và nhân dân Bắc Ninh, cũng như của bản thân các doanh nghiệp trên địa bàn.
Bắc Ninh là tỉnh có mật độ dân số cao, lực lượng lao động dồi dào. Hiện ở tỉnh có hơn 2.800 doanh nghiệp, trong đó có nhiều công ty đa quốc gia. Nhiều doanh nghiệp trong các khu công nghiệp tập trung phải nhập khẩu nguyên liệu, thiết bị, công nghệ để sản xuất, sản phẩm tiêu thụ chủ yếu ở nước ngoài. Trên địa bàn tỉnh cũng có nhiều làng nghề truyền thống, trong đó không ít doanh nghiệp phụ thuộc vào nguyên liệu nhập từ nước ngoài (sản xuất sắt, thép), có làng nghề còn chủ yếu tiêu thụ sản phẩm ở nước ngoài (ví dụ, sản phẩm đồ gỗ mỹ nghệ). Do đó, kinh tế Bắc Ninh có tính hướng ngoại, giá trị kim ngạch xuất khẩu tương đối lớn: năm 2008 là 560 triệu USD, bằng 41,2% GDP của tỉnh.
Khủng hoảng kinh tế toàn cầu và sự suy giảm kinh tế trong nước thời gian qua đã khiến nhiều doanh nghiệp trên địa bàn Bắc Ninh lâm vào tình trạng khó khăn, tập trung chủ yếu ở các mặt:
Thứ nhất, do chi phí đầu vào tăng cao nên quy mô sản xuất bị thu hẹp, buộc một số doanh nghiệp phải cắt giảm nhân công.
Thứ hai, tiêu thụ sản phẩm chậm, lợi nhuận giảm, nhất là ở các doanh nghiệp xuất khẩu, doanh nghiệp đầu tư nước ngoài (các tập đoàn đa quốc gia).
Tình trạng này khiến giá trị sản xuất công nghiệp quý I - 2009 trên địa bàn tỉnh chỉ đạt 3.277 tỉ đồng, giảm 7,02% so với cùng kỳ năm ngoái, trong đó khu vực kinh tế nhà nước giảm 21,5%, khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài giảm 21,2% do sản phẩm của khu vực này chủ yếu là để xuất khẩu; chỉ có khu vực kinh tế ngoài nhà nước tăng 10,05%. Giá trị sản xuất và doanh thu tiêu thụ sản phẩm của các doanh nghiệp trong các khu công nghiệp tập trung giảm 40%, giá trị xuất khẩu giảm 32%, giá trị nhập khẩu giảm 42,7% so với cùng kỳ năm 2008; sản xuất giảm khoảng 30 - 40% so với quý IV - 2008. Nhiều sản phẩm được coi là chủ yếu của Bắc Ninh bị tồn đọng (kính các loại 6,2 triệu m2, 3.700 tấn giấy, 3.250 tấn thép, 61 triệu viên gạch). Chỉ tính riêng đầu năm 2009, trên địa bàn tỉnh có 64 doanh nghiệp ngừng sản xuất, 168 doanh nghiệp phải thu hẹp sản xuất, nhất là các doanh nghiệp sản xuất thép, đồ gỗ mỹ nghệ, sản xuất hàng xuất khẩu. Giá trị xuất khẩu hàng hóa trong quý I-2009 cũng giảm 56% so với cùng kỳ năm trước, chỉ đạt 59,4 triệu USD. Trong đó, khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài giảm 63%.
Hiện nay, tình trạng vốn tồn đọng nhiều do không tiêu thụ được sản phẩm, hoặc bị khách hàng chiếm dụng, nên một số doanh nghiệp bị thiếu vốn sản xuất kinh doanh, kéo theo đó là hệ quả mất cơ hội đầu tư, đầu tư chậm, việc giải ngân vốn đầu tư cũng gặp không ít khó khăn. Trong quý I-2009, tỉnh cấp giấy chứng nhận đầu tư cho 5 dự án FDI, với vốn đầu tư đăng ký gần 7 triệu USD. Trong khi đó, trong quý I-2008, tỉnh cấp giấy chứng nhận đầu tư cho 24 dự án FDI, với vốn đầu tư đăng ký gần 850 triệu USD (trong đó có 1 dự án của Tập đoàn Samsung là 670 triệu USD).
Do sản xuất của doanh nghiệp bị thu hẹp hoặc bị ngừng sản xuất, thậm chí bị phá sản, nên ước tính trong quý I-2009, có hơn 15.300 người lao động bị mất việc hoặc thiếu việc làm, dẫn đến tình trạng đời sống người lao động gặp khó khăn. Chỉ tính riêng trong các khu công nghiệp tập trung, số lao động mất việc làm chiếm khoảng từ 10 - 12%, số chờ việc khoảng 7 - 8%. Cá biệt, Công ty Canon giảm 20% số người lao động, và số người chờ việc làm là khoảng 25%.
Tình trạng này gây ảnh hưởng không nhỏ đến tốc độ và chất lượng phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Vấn đề đặt ra đối với Đảng bộ và nhân dân Bắc Ninh là cần chủ động đề ra các định hướng và kế hoạch phát triển kinh tế phù hợp trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế toàn cầu hiện nay. Để huy động tổng lực hệ thống chính trị toàn tỉnh “đồng hành” cùng doanh nghiệp, tích cực phối hợp với các doanh nghiệp tìm ra các hướng phát triển sản xuất, kinh doanh hữu hiệu, cần làm tốt một số vấn đề sau:
* Đối với cơ quan quản lý nhà nước trên địa bàn
Một là, triển khai kịp thời các giải pháp của Chính phủ về chống suy giảm kinh tế, bảo đảm an sinh xã hội, đồng thời phải tăng cường kiểm tra việc triển khai và thực hiện các giải pháp trên một cách đồng bộ. Nắm chắc tình hình hoạt động kinh doanh, đầu tư của các doanh nghiệp, kịp thời giải quyết khó khăn, vướng mắc của doanh nghiệp để duy trì, mở rộng và phát triển sản xuất, kinh doanh. Tăng cường công tác quản lý thị trường, quản lý giá cả, chống buôn lậu và gian lận thương mại.
Hai là, cung cấp kịp thời, đầy đủ các thông tin về tình hình kinh tế, tài chính, thị trường, giá cả thế giới và trong nước, các thông tin liên quan đến pháp luật quốc tế trong hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, nhằm bảo đảm cho doanh nghiệp hoạt động đúng pháp luật và tránh tình trạng bị bỡ ngỡ trước những quy định, biến động mới của thị trường quốc tế.
Ba là, chính quyền tỉnh tăng cường hơn nữa việc chỉ đạo các cơ quan quản lý nhà nước, tổ chức tín dụng, các hiệp hội doanh nghiệp, các doanh nghiệp trên địa bàn thực hiện có hiệu quả gói kích cầu của Chính phủ, chính sách tài chính tiền tệ của Nhà nước trong điều kiện suy giảm kinh tế.
Bốn là, sử dụng có hiệu quả nguồn lực của tỉnh để hỗ trợ xúc tiến đầu tư, mở rộng thị trường; tăng cường đầu tư cho hạ tầng nông nghiệp, nông thôn.
Năm là, tiếp tục đầu tư cơ sở hạ tầng, kết hợp với cải cách thủ tục hành chính, đẩy mạnh công tác giải phóng mặt bằng, giải ngân vốn đầu tư, nâng cao hiệu quả công tác tư vấn, hỗ trợ doanh nghiệp trong thành lập và tham gia thị trường.
* Đối với các doanh nghiệp
Thứ nhất, cần nắm chắc diễn biến tình hình kinh tế, tài chính, thông tin thị trường, giá cả toàn cầu và trong nước, kịp thời điều chỉnh hoạt động kinh doanh cho phù hợp.
Thứ hai, tăng cường tiết kiệm chi phí, hạ giá thành và cải cách doanh nghiệp cũng như hoạt động kinh doanh; tranh thủ nguồn vốn từ gói kích cầu của Chính phủ để đầu tư, đổi mới công nghệ.
Thứ ba, đầu tư cho các hoạt động nghiên cứu khoa học và sáng tạo nhằm không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm, tăng cường năng lực cạnh tranh của sản phẩm và doanh nghiệp.
Thứ tư, đề ra giá bán hợp lý, cạnh tranh, để đáp ứng được yêu cầu và khả năng tiêu dùng của người tiêu dùng trong và ngoài nước.
Thứ năm, đẩy mạnh công tác xúc tiến đầu tư, xây dựng và quảng bá thương hiệu của doanh nghiệp trên thị trường trong và ngoài nước; tăng cường liên doanh, liên kết giữa các doanh nghiệp nhằm khai thác có hiệu quả tiềm năng, lợi thế của từng doanh nghiệp, huy động tối đa nguồn lực, giảm chi phí, hạ giá thành sản phẩm, từ đó sẽ giúp tăng lợi nhuận để tăng vốn duy trì và phát triển hoạt động sản xuất, kinh doanh./.
Khai mạc Kỳ họp Ðại hội đồng Liên hợp quốc khóa 64  (18/09/2009)
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng dự Diễn đàn doanh nghiệp Việt Nam - Đan Mạch  (17/09/2009)
Khai mạc Kỳ họp Ðại hội đồng Liên hợp quốc khóa 64  (17/09/2009)
- Chủ nghĩa thực dân số trong thời đại số và những vấn đề đặt ra
- Phương hướng, giải pháp nâng cao chất lượng công tác dân vận của Quân đội nhân dân Việt Nam, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn mới
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển đội ngũ nhà giáo và sự vận dụng của Đảng trong giai đoạn hiện nay
- Ngành y tế với công tác chăm sóc, bảo vệ và phát huy vai trò người cao tuổi trong giai đoạn hiện nay
- Quan điểm, chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về công tác tuyên truyền, vận động quần chúng nhân dân - Một số vấn đề đặt ra đối với việc vận dụng, phát triển trong kỷ nguyên mới của đất nước
-
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Cuộc chiến đấu bảo vệ Thành cổ Quảng Trị năm 1972 - khát vọng độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - Bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX -
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Chiến thắng Điện Biên Phủ - Bài học lịch sử và ý nghĩa đối với sự nghiệp đổi mới hiện nay -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Đổi mới tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị “tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả” theo tinh thần định hướng của Đồng chí GS, TS, Tổng Bí thư Tô Lâm