Một số vấn đề về công tác nhân tài của Việt Nam hiện nay
Ông, cha ta đã có những cách đánh giá, tuyển chọn, thu phục và sử dụng nhân tài rất độc đáo, có kế thừa, chọn lọc kinh nghiệm của tư tưởng Nho giáo, nhưng có những nét tiến bộ với phương châm, sách lược là: khi tiến cử nhân tài thì “bên trong tiến cử không kể người thân, bên ngoài tiến cử không kể người thù oán, khảo xét căn cứ vào công sức, năng lực, cứ có tài năng, đức độ là tiến cử, không trông ngóng báo đáp của người được tiến cử”. Việc tiến cử được tiến hành rất cẩn thận, từ phương pháp tuyển chọn, đến việc chú trọng các tiêu chuẩn, điều kiện thông qua những đặc điểm, tâm lý, nhân tướng, tiêu chí cụ thể, rõ ràng: “mang điều nhân để hành động, lấy điều nghĩa để quyết đoán, nghe có người giỏi phải nói cho nhau biết, thấy người tốt phải giới thiệu cho nhau”.
Ông, cha ta cũng rất chú trọng đến việc tôn trọng, trọng dụng nhân tài, sử dụng họ ở những vị trí xứng đáng. Đó là: “tôn trọng sử dụng người có tài, để họ ở vị trí xứng đáng thì người tài trong thiên hạ sẽ vui lòng phục vụ triều đình”. Sử dụng nhân tài là vấn đề vô cùng hệ trọng, ông, cha ta cũng đã dựa vào nguyên tắc tùy tài mà giao việc, bởi vì tài cao mà giao việc nhỏ thì dẫn đến nhân tài chán mà bỏ việc, tài nhỏ mà giao việc lớn thì sẽ hỏng việc; hoặc có tài ở lĩnh vực này lại giao cho công việc của lĩnh vực khác thì cũng không làm được việc.
Trong việc tuyển chọn người tài, ông, cha ta rất quan tâm việc tổ chức tuyển chọn qua thi cử và tiến cử (kể cả tự tiến cử) bằng nhiều hình thức linh hoạt, như: “Chiếu cầu hiền tài”, “Chiếu hiền tài”. Đạo trị nước phải lấy gây dựng nhân tài làm việc ưu tiên mà phương pháp gây dựng thì trước hết phải nuôi dưỡng nhân tài.
Điều đáng lưu ý là cách nhận biết nhân tài của người xưa được thông qua một số hoàn cảnh để thử tài trí và tấm lòng kiên trung trong sạch, như: phái đi xa để xem sự trung thành, bởi vì đi xa thì khó đôn đốc; kiểm tra để xem sự tự giác, tận tâm với công việc; giữ lại gần và không thúc giục để xem có tự giác và cung kính hay không; giao cho nhiều công việc có lớn, có nhỏ, có khó, có dễ để xem năng lực; đột nhiên ra một vấn đề bao gồm những ý tưởng kỳ lạ để thử xem tri thức, trí tuệ và sự nhạy cảm; giao công việc và hẹn thời gian để kiểm tra chữ tín; cho phép quản lý tiền bạc, vật phẩm có giá trị để xem có nảy sinh lòng tham hay không; báo cho biết trước sự nguy cấp để xem khí tiết; cho uống rượu để xem thái độ và trạng thái thần kinh; đặt vào nơi nhiều gái đẹp xem có biểu hiện là háo sắc hay không. Thử thách con người qua những hoàn cảnh như thế mới thấy rằng việc tuyển chọn nhân tài của người xưa cũng thật sự kỹ càng và rất khoa học, chặt chẽ, thận trọng.
Các triều đại phong kiến kén chọn các bậc hiền tài không chỉ trong các quan văn, quan võ, mà còn trong những người tài giỏi ở các làng nghề, các nghệ nhân, nghệ sĩ trong các tầng lớp dân cư.
Tiêu chuẩn lựa chọn hiền tài được ông, cha ta quy định khá rõ ràng, như: phải tuyệt đối trung thành với vua; phải là người trong sạch; phải là người chính trực, ngay thẳng, không xu nịnh.
Trong quá trình sử dụng nhân tài, các triều đình phong kiến thường xuyên tổ chức các đợt “khảo hạch” để bồi dưỡng và kiểm tra kiến thức của các quan lại, trên cơ sở đó để có chế độ đãi ngộ phù hợp; có chính sách ban phát bổng lộc tùy theo phẩm cấp và công trạng. Điểm tiến bộ trong việc sử dụng hiền tài ở ông, cha ta xưa không chỉ chú trọng vào bằng cấp, mà quan trọng hơn là các bậc tiền nhân đã biết coi trọng năng lực thực tế thông qua kết quả hoàn thành công việc.
Trong các triều đại phong kiến, đã thực hiện chính sách không giữ chức quan suốt đời hoặc không thăng quan theo niên hạn theo kiểu “đến hẹn lại lên”. Có sự đánh giá tùy theo năng lực và đạo đức để bổ nhiệm lại, tránh tình trạng quan lại không chịu phấn đấu, hoặc tham quyền cố vị cản trở việc bổ nhiệm những người có tài, có đức vào những cương vị, chức vụ cần thiết.
Những tư tưởng tích cực đó của ông, cha ta rất đáng để chúng ta lấy làm bài học tham khảo trong phát hiện, tôn trọng, đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng, đãi ngộ tôn vinh nhân tài hiện nay.
Công tác nhân tài của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay
Quan điểm, chủ trương của Đảng ta về phát triển nhân tài
Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Trung ương khóa X tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng nêu rõ định hướng việc phát hiện, trọng dụng nhân tài của đất nước là: “Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, đặc biệt là đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý giỏi; đội ngũ cán bộ khoa học, công nghệ, văn hóa đầu đàn; đội ngũ doanh nhân và lao động lành nghề”(1).
“Phát huy và sử dụng có hiệu quả nhất nguồn tri thức của con người Việt Nam và khai thác nhiều nhất tri thức của nhân loại. Xây dựng và triển khai lộ trình phát triển kinh tế tri thức đến năm 2020”(2).
“Thực hiện đồng bộ chính sách đào tạo, thu hút, trọng dụng, đãi ngộ xứng đáng nhân tài khoa học, công nghệ”(3). “Xây dựng đội ngũ trí thức lớn mạnh, có chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước. Tôn trọng và phát huy tự do tư tưởng trong hoạt động nghiên cứu, sáng tạo. Trọng dụng trí thức trên cơ sở đánh giá đúng phẩm chất, năng lực và kết quả cống hiến. Bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, đãi ngộ xứng đáng những cống hiến của trí thức. Có chính sách đặc biệt đối với nhân tài của đất nước”(4).
Một số kiến nghị đối với công tác nhân tài của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay
Để đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước với mục tiêu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại, Đảng và Nhà nước cần sớm ban hành Nghị quyết chuyên đề về phát triển nhân tài đáp ứng yêu cầu sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế.
Nhà nước cần sớm chỉ đạo nghiên cứu, xây dựng chiến lược nhân tài quốc gia phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế với mục tiêu, quan điểm, yêu cầu, nhiệm vụ cụ thể, giải pháp đồng bộ, lộ trình sát hợp với từng thời kỳ, từng giai đoạn để xây dựng được đội ngũ nhân tài đồng bộ về cơ cấu, đủ về số lượng, bảo đảm chất lượng. Thực hiện đề án quy hoạch tổng thể đội ngũ cán bộ của hệ thống chính trị, trong đó có cả cán bộ là nhân tài lãnh đạo, quản lý, nhân tài quản lý sản xuất, kinh doanh, nhân tài nghiên cứu khoa học, nhân tài làm công tác tham mưu trong các cơ quan Đảng, Nhà nước, đoàn thể chính trị - xã hội...
Cần có cơ chế phát hiện nhân tài nói chung, nhân tài ở từng lĩnh vực, cấp độ nói riêng. Mở rộng nguồn phát hiện nhân tài tới những cán bộ xuất sắc, có triển vọng ở cấp dưới, coi trọng phát hiện trong những cán bộ, chuyên viên nghiên cứu có nhiều sáng kiến, công trình tiêu biểu có giá trị lý luận và thực tiễn, có nhiều khả năng, triển vọng phát triển.
Để thực hiện tốt việc (khâu) tuyển chọn nhân tài, cần nghiên cứu ban hành quy chế, quy định cụ thể về cơ chế, tiêu chuẩn đánh giá nhân tài để có cơ sở pháp lý thực hiện đúng quy định và có hiệu quả; xây dựng quy trình chuẩn chung trong việc tuyển chọn nhân tài thông qua việc thẩm định, đánh giá hồ sơ, uy tín của người được giới thiệu, xem xét, tuyển chọn. Thành viên hội đồng đánh giá là những người thực sự có tài, gương mẫu, có uy tín, am hiểu sâu về lĩnh vực cần tuyển chọn nhân tài; làm việc công tâm, khách quan, dân chủ. Có quy định cụ thể về cơ chế thu hút nhân tài một cách linh hoạt, tránh hình thức, hành chính hóa. Tùy mục tiêu, yêu cầu sử dụng nhân tài mà có cơ chế, hình thức, biện pháp thu hút nhân tài phù hợp.
Về đào tạo và bồi dưỡng nhân tài
Việc đào tạo nhân tài cần phải có cơ chế, chính sách toàn diện, đồng bộ, đổi mới căn bản để nhằm mục đích đào tạo được nhiều nhân tài ở nhiều cấp độ, nhiều lĩnh vực bằng nhiều loại hình thích hợp, có chất lượng, hiệu quả cao nhất.
Có chính sách ưu tiên đối với ngành sư phạm để có đội ngũ giáo viên giỏi, chất lượng cao, đủ phẩm chất, năng lực thực hiện sự nghiệp “trồng người” của đất nước. Thấm nhuần lời Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn:
“Vì lợi ích 10 năm thì phải trồng cây,
Vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người”.
Phát hiện và bồi dưỡng các năng khiếu ngay từ các bậc học tiểu học, trung học; cả ở các lĩnh vực, các môn học có ưu thế, cả những lĩnh vực, những môn có tính truyền thống và có tính hiện đại hoặc có tính lợi thế của nước ta so với các quốc gia khác.
Xây dựng cơ chế, mô hình đào tạo cử nhân tài năng có chất lượng, hiệu quả ở một số trường đại học trọng điểm quốc gia; đồng thời, xây dựng một số trường đại học, cao đẳng đạt trình độ tiên tiến trong khu vực. Nhanh chóng thực hiện mô hình liên kết với các trường đại học có uy tín, tầm cỡ quốc tế trong đào tạo nhân tài, nhất là các ngành, các lĩnh vực mũi nhọn mà nước ta có lợi thế trong hiện tại và cả tương lai. Cần thành lập và tổ chức thực hiện tốt Quỹ quốc gia về đào tạo tài năng, nhất là tài năng trẻ và Quỹ ủng hộ phát triển tài năng của đất nước.
Xây dựng một xã hội học tập, ngoài việc khuyến khích nhân tài sau khi được đào tạo phải “tự tu, tự dưỡng, tự rèn”, có cơ chế chính sách hợp lý, định kỳ tổ chức bồi dưỡng cho nhân tài những kiến thức, kinh nghiệm cần thiết ở những lĩnh vực khác để phát triển toàn diện, có nhận thức nhân văn, sâu sắc, trách nhiệm trong việc cống hiến tài năng cho đất nước. Có thể cử nhân tài tu nghiệp, thực tập thêm về chuyên môn ở nước ngoài; mời chuyên gia của nước ngoài về trao đổi, truyền đạt kinh nghiệm...
Về sử dụng nhân tài
Việc sử dụng nhân tài là công việc hệ trọng, phải hết sức công tâm, khách quan, chặt chẽ, kỹ lưỡng. Nếu sử dụng không đúng, không hết tài năng thì dễ sinh tâm lý chán nản; trao cho công việc, trọng trách không phù hợp, không ngang sức, ngang tài, khiến không yên tâm công tác, làm việc cầm chừng, thiếu động cơ, thiếu tính tiến thủ. Nếu sử dụng quá tài năng, sức lực sẽ dẫn đến hỏng việc, mất cán bộ, mất nhân tài. Thực hiện đào tạo, bồi dưỡng, luân chuyển hợp lý để tạo điều kiện cho nhân tài phấn đấu, rèn luyện, trên cơ sở đó thực hiện việc bổ nhiệm, đề bạt kịp thời, chuẩn xác. Chú trọng xây dựng và sử dụng đội ngũ nhân tài ở các ngành nghề, các lĩnh vực, trình độ, lứa tuổi hợp lý.
Về chính sách đãi ngộ nhân tài
Muốn có các nhà khoa học giỏi, đích thực tài năng, đức độ, cần thực hiện cơ chế cạnh tranh giữa các nhà khoa học về tiền lương, tiền thưởng, chức vụ. Có cạnh tranh mới nảy sinh nhân tài, đây là nhân tố quan trọng của việc tạo động lực phấn đấu, tạo ra sản phẩm, phát minh, sáng kiến mới, kết quả khoa học, kết quả nghiên cứu, tham mưu có giá trị, hiệu suất công tác cao. Đồng thời, có cơ chế, quy định xử phạt nghiêm khắc đối với những việc làm kém hiệu quả hay có sự gian dối trong nghiên cứu khoa học, trong tham mưu, nếu không hoàn thành nhiệm vụ.
Có cơ chế, chính sách ưu tiên, đãi ngộ xứng đáng cho những người tốt nghiệp loại giỏi, sinh viên sau khi tốt nghiệp ở nước ngoài có tài năng đích thực về nước công tác. Lựa chọn một số trí thức có năng lực, trí tuệ nổi trội để bồi dưỡng họ trở thành những nhân tài trên một số lĩnh vực trọng điểm, mũi nhọn, đồng thời phát triển đội ngũ trí thức này trở thành cán bộ lãnh đạo trong tương lai. Xây dựng một chiến lược phát triển nguồn nhân lực với những phương án quy hoạch đào tạo khả thi, đáp ứng nhu cầu về nguồn nhân lực khoa học công nghệ trong cả nước. Tăng cường và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ khoa học công nghệ ở các cấp, các ngành theo hướng đạt chuẩn mực quốc tế và phù hợp với đặc điểm của Việt Nam./.
Kinh tế toàn cầu - lấp ló nguy cơ suy thoái mới  (27/10/2011)
Đối thoại chiến lược Việt Nam – Anh lần thứ nhất tại Luân Đôn  (27/10/2011)
UNESCO: Hơn 50% người dân các nước nghèo sẽ được tiếp cận Internet băng thông rộng vào năm 2015  (27/10/2011)
Ủy ban Kiểm tra thẩm tra dự án Luật phòng, chống rửa tiền  (27/10/2011)
Thông cáo số 5 Kỳ họp thứ hai, Quốc hội khóa XIII  (26/10/2011)
- Chủ nghĩa thực dân số trong thời đại số và những vấn đề đặt ra
- Phương hướng, giải pháp nâng cao chất lượng công tác dân vận của Quân đội nhân dân Việt Nam, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn mới
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển đội ngũ nhà giáo và sự vận dụng của Đảng trong giai đoạn hiện nay
- Ngành y tế với công tác chăm sóc, bảo vệ và phát huy vai trò người cao tuổi trong giai đoạn hiện nay
- Quan điểm, chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về công tác tuyên truyền, vận động quần chúng nhân dân - Một số vấn đề đặt ra đối với việc vận dụng, phát triển trong kỷ nguyên mới của đất nước
-
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Cuộc chiến đấu bảo vệ Thành cổ Quảng Trị năm 1972 - khát vọng độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - Bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX -
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Chiến thắng Điện Biên Phủ - Bài học lịch sử và ý nghĩa đối với sự nghiệp đổi mới hiện nay -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Đổi mới tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị “tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả” theo tinh thần định hướng của Đồng chí GS, TS, Tổng Bí thư Tô Lâm