Bảo đảm an ninh con người trong bối cảnh thế giới biến động: Thực tiễn ở Việt Nam
TCCS - Trong suốt quá trình đổi mới đất nước gần 40 năm qua, Việt Nam luôn đặc biệt quan tâm đến an ninh con người và sự phát triển toàn diện của người dân. Đặc biệt trong bối cảnh thế giới có nhiều biến động nhanh chóng, khó lường, việc bảo đảm an ninh con người được Đại hội XIII của Đảng khẳng định vừa là mục tiêu phấn đấu, vừa là động lực cho sự ổn định chính trị - xã hội và phát triển đất nước hùng cường, thịnh vượng.
Nội hàm bảo đảm an ninh con người: Tiếp cận từ tình hình mới
Khái niệm “an ninh con người” lần đầu tiên được chính thức đưa vào chương trình nghị sự của thế giới trong “Báo cáo Phát triển Con người năm 1994” của Chương trình Phát triển của Liên hợp quốc (UNDP)(1), theo đó, “an ninh con người” được hiểu “là sự an toàn của con người trước những mối đe dọa kinh niên như nghèo đói, bệnh tật, đàn áp và những biến cố bất ngờ, bất lợi trong cuộc sống hằng ngày”. Năm 2003, Ủy ban An ninh con người của Liên hợp quốc đưa ra giải thích rõ hơn về “an ninh con người”, đó là bảo đảm an ninh con người trước các mối đe dọa bệnh tật, đói nghèo, thất nghiệp, tội phạm, xung đột xã hội, trấn áp chính trị, đồng thời mở rộng khái niệm đề cập đến việc bảo vệ các nạn nhân của di dân, tị nạn do xung đột, cải thiện điều kiện sống để vượt đói nghèo, được chăm sóc y tế và được tiếp nhận kiến thức. Năm 2005, Tổng Thư ký Liên hợp quốc Kofi Annan khi đó đã bổ sung thêm nội hàm “tự do sống một cuộc sống có phẩm giá” nhằm nhấn mạnh vào pháp trị, nhân quyền và dân chủ. Tiếp đó, các học giả Hans Günter Brauch và Janos J. Bogardi mở rộng khái niệm an ninh con người, hướng đến an ninh trước các “mối nguy hiểm rình rập” bởi các nguy cơ rủi ro từ môi trường, biến đổi khí hậu(2).
Trong giới học giả và chính giới hiện nay, nội hàm “an ninh con người” còn được nhìn nhận từ việc xác định những yếu tố cấu thành nên quyền và sự an toàn của con người. Vì vậy, “an ninh con người” được lý giải theo hai cách khác nhau: Theo nghĩa hẹp, “an ninh con người” tập trung chủ yếu vào mối đe dọa bằng bạo lực đối với cá nhân. Theo nghĩa rộng, “an ninh con người” là bộ phận quan trọng của an ninh quốc gia, được đề cập toàn diện trong các lĩnh vực của đời sống xã hội. Với cách tiếp cận này, mục tiêu của an ninh con người là “tất cả vì con người”, “con người làm trung tâm trong hoạch định chính sách phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia”. Việc xây dựng tiêu chí, chỉ số đo lường về bảo đảm an ninh con người được bổ sung, mở rộng và cụ thể hóa theo thời gian, môi trường, điều kiện, hoàn cảnh nhất định.
Trên cơ sở đó, xét trên phương diện quốc gia, nội hàm “bảo đảm an ninh con người” là bảo vệ con người trước: “sự thiếu thốn” (phương diện an ninh, kinh tế, xã hội) bằng cách giảm tính dễ bị tổn thương của xã hội thông qua các chương trình, chiến lược phát triển quốc gia; “nỗi sợ hãi” (phương diện an ninh, chính trị, quân sự và xã hội) bằng cách giảm nguy cơ con người phải đối diện với tình trạng bạo lực và xung đột; “các mối nguy hiểm rình rập” (phương diện an ninh môi trường) bằng cách giảm tính dễ bị tổn thương của xã hội trước các mối đe dọa tự nhiên và do con người gây ra. Đồng thời, bảo đảm tự do sống một cuộc sống có phẩm giá (phương diện an ninh, chính trị và xã hội) bằng cách thúc đẩy hệ thống luật định và tăng cường quản trị nhà nước, bảo đảm nhân quyền và dân chủ(3).
Xét trên phương diện quốc tế, trước những biến động nhanh chóng, khó lường của tình hình thế giới hiện nay với việc xuất hiện nhiều vấn đề mang tính toàn cầu, có thêm khái niệm phản ánh bối cảnh quốc tế, như xu thế hòa bình, hợp tác và phát triển, sự cạnh tranh chiến lược gay gắt giữa các nước lớn, xu thế đa phương hóa, khu vực hóa và toàn cầu hóa, những vấn đề an ninh phi truyền thống (như biến đổi khí hậu, tội phạm xuyên quốc gia, chủ nghĩa khủng bố, dịch bệnh, đói nghèo, bất bình đẳng quốc gia, suy thoái môi trường, tị nạn quốc tế, buôn bán người, ma túy, xung đột sắc tộc, xung đột tôn giáo…) đe dọa nghiêm trọng tới an ninh con người, nội hàm và phạm vi “bảo đảm an ninh con người” tiếp cận cụ thể hơn từ góc độ “an ninh” nhằm nhấn mạnh đến những lĩnh vực tác động trực tiếp từ bên ngoài đến chủ thể cần được bảo vệ là con người. Con người ngày càng được đặt vào vị trí ưu tiên và được chính phủ các nước quan tâm đặc biệt nhằm bảo đảm sự an toàn của con người trước những nguy cơ, thách thức trên.
Tựu trung, nội hàm và phạm vi “bảo đảm an ninh con người” hiện nay được hiểu là bảo vệ con người trước các nguy cơ có tính phi bạo lực (từ an ninh mạng và tội phạm công nghệ cao; biến đổi khí hậu, suy thoái môi trường; khủng hoảng năng lượng, khủng hoảng lương thực toàn cầu,…), nguy cơ có tính bạo lực (như xung đột, tranh chấp chủ quyền lãnh thổ; khủng bố, hoạt động tội phạm xuyên quốc gia,…).
Trên thế giới, không ít quốc gia đã sớm nhận thức được việc bảo đảm an ninh con người gắn với bảo đảm an ninh quốc gia - dân tộc, trong đó có Việt Nam. Tiếp thu thế giới quan, phương pháp luận cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác - Lê-nin về con người và giải phóng con người, trên cơ sở nhận thức đúng xu thế phát triển tất yếu của loài người và tính chất của thời đại mới, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sớm khẳng định sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội và giải phóng con người là sự nghiệp của giai cấp vô sản, của nhân dân lao động và của cả dân tộc. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nâng tư tưởng về con người lên một tầm cao mới, hình thành nên chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, chữ “con người” ở đây theo “nghĩa hẹp là gia đình, anh em, họ hàng, bầu bạn. Nghĩa rộng là đồng bào cả nước. Rộng nữa là cả loài người”(4). Vấn đề con người có một vị trí đặc biệt, được coi trọng như mục tiêu thiêng liêng, cao cả của sự nghiệp cách mạng. Chính vì vậy, mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội mà Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định cho cách mạng Việt Nam là nhằm giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội để đi đến giải phóng con người. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Không có chế độ nào tôn trọng con người, chú ý xem xét những lợi ích cá nhân đúng đắn và bảo đảm cho nó được thoả mãn bằng chế độ xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa”(5), vì vậy trên hết,“Việc gì có lợi cho dân, ta phải hết sức làm. Việc gì hại đến dân, ta phải hết sức tránh”(6). Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh trách nhiệm đối với đời sống của nhân dân, đó là: “1. Làm cho dân có ăn. 2. Làm cho dân có mặc. 3. Làm cho dân có chỗ ở. 4. Làm cho dân có học hành…”(7); “Chúng ta tranh được tự do, độc lập rồi mà dân cứ chết đói, chết rét, thì tự do, độc lập cũng không làm gì. Dân chỉ biết rõ giá trị của tự do, độc lập khi mà dân được ăn no, mặc đủ”(8). Theo đó, phải xây dựng một xã hội dân chủ, công bằng; giữ vững độc lập dân tộc, bảo đảm toàn vẹn, thống nhất lãnh thổ, giữ vững môi trường ổn định, hòa bình, kiên định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”, đất nước hùng cường, thịnh vượng.
Trong tiến trình phát triển của cách mạng Việt Nam, xuyên suốt các văn kiện đại hội, đặc biệt là từ Đại hội VI, quan điểm của Đảng hướng tới mục tiêu phát triển đất nước là vì con người và do con người, đặc biệt trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội. Trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2011 - 2020, Đại hội XI của Đảng (năm 2011) khẳng định con người là trung tâm và chủ thể của phát triển gắn liền với việc thực hiện quyền làm chủ của nhân dân. Đại hội XII (năm 2016), Đảng xác định: “Tăng cường quản lý phát triển xã hội, bảo đảm an ninh xã hội, an ninh con người”(9).
Kế thừa nhất quán tư tưởng được khẳng định trong các kỳ đại hội đảng trước đó, đồng thời trên cơ sở những nhận thức mới về lý luận, những thay đổi của bối cảnh quốc tế và điều kiện thực tế trong nước, nội hàm “bảo đảm an ninh con người” trong Văn kiện Đại hội XIII (năm 2021) của Đảng được xác định là một nội dung lý luận mới, bao quát toàn bộ lĩnh vực của đời sống xã hội. Đại hội XIII của Đảng khẳng định: Phát huy tối đa nhân tố con người, coi con người là trung tâm, chủ thể, nguồn lực quan trọng nhất và mục tiêu của sự phát triển; lấy giá trị văn hóa, con người Việt Nam là nền tảng, sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững. Đây thực chất là việc cụ thể hóa các tư tưởng lập hiến đã nêu trong Hiến pháp năm 2013 của Việt Nam.
Trong 12 định hướng phát triển đất nước thời kỳ 2021 - 2030, có hai định hướng nhằm mục tiêu bảo đảm an ninh con người, cụ thể: “Quản lý phát triển xã hội có hiệu quả, nghiêm minh, bảo đảm an ninh xã hội, an ninh con người; thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; xây dựng môi trường văn hóa, đạo đức xã hội lành mạnh, văn minh...”(10) và “Kiên quyết, kiên trì bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa. Giữ vững an ninh chính trị, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, an ninh con người, an ninh kinh tế, an ninh mạng, xây dựng xã hội trật tự, kỷ cương…”(11).
Đại hội XIII của Đảng xác định bảo vệ an ninh con người nhằm bảo đảm cho sự phát triển bền vững của con người và xã hội: “Tăng cường quản lý phát triển xã hội, bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội, tính bền vững trong các chính sách xã hội, nhất là phúc lợi xã hội, an ninh xã hội, an ninh con người”(12). Đây là sự tiếp nối nhất quán nhận thức của Đảng về vai trò, vị trí, ý nghĩa, tầm quan trọng của việc giải quyết các vấn đề xã hội như một nội dung đặc biệt quan trọng vì mục tiêu phát triển con người. Đó cũng là hạt nhân của định hướng xã hội chủ nghĩa trong các chính sách phát triển kinh tế - xã hội nói chung, thể hiện tính ưu việt của chế độ xã hội - chế độ của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, luôn lấy con người làm mục tiêu phát triển. Có thể khẳng định, nhân dân luôn là trung tâm trong hoạch định chính sách, quyết nghị của Đảng Cộng sản Việt Nam, là cội nguồn sức mạnh để đất nước vững bước đi lên.
Đáng chú ý, trước bối cảnh tình hình thế giới và khu vực tiềm ẩn nhiều nguy cơ đe dọa tới an ninh quốc gia, tới bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc, như cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu do đại dịch COVID-19, cuộc cạnh tranh chiến lược giữa Mỹ và Trung Quốc, biến động an ninh - chính trị ở một số khu vực do cuộc xung đột Nga - Ukraine, cuộc xung đột Israel - Hamas…; chủ nghĩa khủng bố, chủ nghĩa dân túy gia tăng, tranh chấp lãnh thổ leo thang, tình trạng biến đổi khí hậu toàn cầu ngày càng nghiêm trọng,… Đại hội XIII của Đảng xác định bảo vệ an ninh con người là bảo vệ an ninh quốc gia, coi an ninh con người là một bộ phận của an ninh quốc gia. Mối quan hệ giữa an ninh con người và an ninh quốc gia là mối quan hệ thống nhất biện chứng. Bảo đảm an ninh quốc gia là trách nhiệm quan trọng nhất của quốc gia, cũng chính là nhằm bảo đảm an ninh con người. Ngược lại, không thể bảo đảm vững chắc an ninh quốc gia nếu như không bảo đảm an ninh con người.
Như vậy, so với 7 thành tố do Liên hợp quốc xác định, nội hàm và phạm vi “an ninh con người” và bảo đảm an ninh con người trong bối cảnh thế giới hiện nay được Đảng ta điều chỉnh và xác định rõ: 1- Về an ninh kinh tế, đó là sự bảo đảm về an sinh xã hội, việc làm và thu nhập cơ bản, nhất là trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế toàn cầu, xung đột, dịch bệnh,…; 2- Về an ninh lương thực, thể hiện ở việc được bảo đảm nhu cầu tối thiểu về lương thực, thực phẩm, nhất là khi xảy ra chiến tranh, xung đột cục bộ, khủng hoảng an ninh năng lượng, khủng hoảng an ninh lương thực, khủng hoảng nhân đạo, dịch bệnh,…; 3- Về an ninh sức khỏe, thể hiện ở việc được bảo đảm ở mức tối thiểu trong phòng, chống dịch bệnh và chăm sóc y tế trước những đại dịch toàn cầu; 4- Về an ninh môi trường, là việc được bảo vệ trước thiên tai, tai họa do con người gây ra và tình trạng ô nhiễm môi trường sống do biến đổi khí hậu toàn cầu; 5- Về an ninh cá nhân, là được bảo vệ trước những hành vi tội phạm, bạo lực hoặc lạm dụng thể chất do bất kể chủ thể nào gây ra; trước những rủi ro từ môi trường kinh tế, chính trị, an ninh quốc tế; 6- Về an ninh cộng đồng, thể hiện ở việc duy trì các mối quan hệ và giá trị truyền thống của cộng đồng trước sự giao thoa các nền văn hóa thế giới, gia tăng ảnh hưởng “sức mạnh mềm” quốc gia; 7- Về an ninh chính trị, là việc được tôn trọng các quyền con người cơ bản, đặc biệt là quyền dân sự, chính trị trước những tác động của biến động tình hình chính trị quốc tế.
Những thành tố trên thể hiện khá toàn diện các khía cạnh bảo đảm an ninh con người. Thực tế cho thấy, đây cũng chính là các lĩnh vực tập trung hầu hết mối đe dọa trực tiếp đến sự tồn tại và phát triển bền vững của mỗi cá nhân. Cách tiếp cận phạm vi đa chiều về bảo đảm an ninh con người, nhất là trong bối cảnh các nguy cơ an ninh truyền thống và an ninh phi truyền thống trên thế giới ngày càng phức tạp, khó dự đoán như hiện nay cho phép cái nhìn hệ thống và đánh giá được tính chất, mức độ các mối đe dọa, từ đó xây dựng cách thức ứng phó hiệu quả các nguy cơ đe dọa an ninh và phát triển bền vững của con người.
Con người trung tâm trong chiến lược phát triển đất nước
Sau gần 40 năm đổi mới, Việt Nam đang bước vào kỷ nguyên mới như Tổng Bí thư Tô Lâm khẳng định, “là kỷ nguyên phát triển, kỷ nguyên giàu mạnh, kỷ nguyên thịnh vượng dưới sự lãnh đạo, cầm quyền của Đảng Cộng sản, xây dựng thành công nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Mọi người dân đều có cuộc sống ấm no, hạnh phúc, được hỗ trợ phát triển, làm giàu”(13). Đảng ta đặc biệt nhấn mạnh đặt nhân tố con người, an ninh con người làm trung tâm của chiến lược phát triển đất nước, bảo vệ an ninh quốc gia cũng chính là bảo vệ cuộc sống của nhân dân.
Trong thời gian qua, các chỉ tiêu đánh giá toàn cầu ghi nhận tiến bộ vượt bậc của Việt Nam. Việt Nam là một trong số ít quốc gia sớm hoàn thành các Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ (MDGs) của Liên hợp quốc, đang chuyển sang giai đoạn triển khai Chương trình Nghị sự 2030 với 17 Mục tiêu Phát triển bền vững (SDGs). Năm 2024, theo Báo cáo Phát triển con người toàn cầu (HDR), Chỉ số phát triển con người (HDI) của Việt Nam tăng 8 bậc so với năm 2023, từ 115 lên vị trí 107/193 quốc gia; Chỉ số hạnh phúc tăng 11 bậc, xếp thứ 54/143; Chỉ số phát triển bền vững (SDGs) tăng 1 bậc, xếp thứ 54/166. Hiện nay, Việt Nam là thành viên tích cực của Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc (nhiệm kỳ 2023 - 2025). Những kết quả này phản ánh thành quả của chính sách đúng đắn, hiệu quả của Đảng, Nhà nước thực hiện nhất quán quan điểm “lấy người dân làm trung tâm, là chủ thể, là mục tiêu và là động lực của phát triển”, bảo đảm toàn diện an ninh con người. Cụ thể là:
Thứ nhất, bảo đảm an ninh kinh tế. Thời gian qua, trước bối cảnh nền kinh tế thế giới gặp nhiều khó khăn, thách thức như sự đứt gãy chuỗi cung ứng toàn cầu do đại dịch COVID-19, cuộc chiến thương mại Mỹ - Trung Quốc, khủng hoảng an ninh năng lượng từ những bất ổn chính trị do cuộc xung đột Nga - Ukraine,… nền kinh tế Việt Nam đã ứng phó hiệu quả, phục hồi tích cực. Năm 2023, quy mô tổng sản phẩm quốc nội (GDP) đạt 5,05%, Việt Nam trở thành nền kinh tế lớn thứ 5 trong Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) và thứ 35 trong 40 nền kinh tế lớn nhất thế giới. GDP bình quân đầu người đạt 4.284 USD(14). Năm 2024, GDP đạt 7,09%, GDP bình quân đầu người là 4.700 USD(15). Theo đó, Việt Nam bước vào nhóm các nước thu nhập trung bình cao vào năm 2025, với GDP dự báo đạt khoảng 5.000 USD.
Việt Nam đã trở thành một trong những quốc gia hàng đầu ASEAN về thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) với tổng vốn FDI tính đến tháng 9-2025 đạt 28,54 tỷ USD. Về thị trường lao động, tỷ lệ thất nghiệp của lực lượng lao động trong độ tuổi duy trì ở mức thấp là 1,84% (năm 2024), trong đó tỷ lệ thất nghiệp ở khu vực thành thị là 1,28% và ở khu vực nông thôn là 2,2%(16).
Việc phát triển kinh tế đi đôi với phát triển văn hóa, xã hội, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội trong chính sách phát triển đã giúp cải thiện rõ rệt mức sống và chất lượng sống của người dân; hệ thống an sinh xã hội ngày càng phát triển. Báo cáo Chỉ số nghèo đa chiều (MPI) toàn cầu được UNDP và Sáng kiến nghèo đói và phát triển con người (OPHI) tại Đại học Oxford (Anh) năm 2023, chỉ ra rằng Việt Nam là một trong 25 quốc gia đã hạ được chỉ số MPI xuống một nửa trong vòng 15 năm(17). Trong giai đoạn 2016 - 2022, tỷ lệ hộ nghèo đa chiều liên tục giảm. Năm 2024, tỷ lệ hộ nghèo là 4,06%(18).
Thứ hai, bảo đảm an ninh lương thực. Đây là vấn đề luôn được Đảng và Nhà nước Việt Nam đặc biệt quan tâm, chỉ đạo với việc ban hành kịp thời các văn bản quy phạm pháp luật(19). Từ một quốc gia bị thiếu lương thực, Việt Nam đã trở thành một nước xuất khẩu gạo và nhiều nông sản khác đứng hàng đầu thế giới(20). Sau hơn 10 năm (2009 - 2019) thực hiện Kết luận số 53-KL/TW, ngày 5-8-2009, của Bộ Chính trị khóa X, “Về Đề án An ninh lương thực quốc gia đến năm 2020”, Việt Nam bảo đảm vững chắc an ninh lương thực quốc gia, góp phần ổn định kinh tế, chính trị, xã hội và phát triển đất nước(21). Năm 2024, năng suất lúa đạt 60,9 tạ/ha; sản lượng lúa đạt 43,46 triệu tấn(22).Việt Nam đã đạt được những kết quả tích cực trong việc cải thiện tình trạng dinh dưỡng cho người dân.
Thứ ba, bảo đảm an ninh y tế. Hiến pháp năm 2013 hiến định quyền được chăm sóc sức khỏe cho mọi người dân(23). Hệ thống pháp luật, chiến lược, chương trình mục tiêu quốc gia về y tế liên tục hoàn thiện theo hướng lấy dự phòng làm then chốt, chăm sóc sức khỏe toàn dân làm định hướng. Trên thực tiễn triển khai, hầu hết chỉ số cơ bản về sức khỏe của Việt Nam đều đạt so với mục tiêu quốc gia về MDGs, cũng như SDGs của Liên hợp quốc. Tuổi thọ trung bình người dân Việt Nam tăng từ 72,9 tuổi năm 2010 lên 73,7 tuổi vào năm 2020; hiện nay, có 10 bác sĩ và 30 giường bệnh trên 1 vạn dân(24). Việt Nam đã có sự thay đổi căn bản về bảo hiểm y tế, mức độ mở rộng diện bảo hiểm y tế bắt buộc và tự nguyện đạt 93,35%; đồng thời việc tăng cường y tế phòng ngừa, phòng, chống dịch bệnh, hỗ trợ các đối tượng có hoàn cảnh khó khăn được đẩy mạnh.
Thứ tư, bảo đảm an ninh môi trường. Là một trong những quốc gia chịu ảnh hưởng nặng nề bởi biến đổi khí hậu, những năm qua, Việt Nam luôn chú trọng nâng cao năng lực dự báo, cảnh báo thiên tai nhằm góp phần chủ động phòng, chống và giảm thiểu thiệt hại thiên tai, biến đổi khí hậu; đẩy mạnh hợp tác quốc tế trong triển khai thực hiện Thỏa thuận Paris về biến đổi khí hậu và Kế hoạch quốc gia thích ứng với biến đổi khí hậu. Công tác quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường được tập trung thực hiện hiệu quả(25). Chỉ số phát triển bền vững của Việt Nam đứng top đầu trong ASEAN.
Thứ năm, bảo đảm an ninh cá nhân, an ninh cộng đồng, an ninh chính trị. Việt Nam giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ. Lợi ích quốc gia - dân tộc, cùng với nhiệm vụ bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa, được đặt ở vị trí trung tâm trong chiến lược phát triển. Nhờ đó, an ninh quốc gia, trật tự và an toàn xã hội được bảo đảm vững chắc, tạo tiền đề và cơ sở quan trọng cho phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống tinh thần và đời sống vật chất của nhân dân. Song song với đó, đẩy mạnh xây dựng “thế trận lòng dân” vững chắc trong thế trận quốc phòng toàn dân và thế trận an ninh nhân dân. Bảo đảm an ninh con người trước các thách thức, mối đe dọa an ninh truyền thống và an ninh phi truyền thống; chú trọng an ninh, an toàn là yếu tố hàng đầu trong tạo dựng cuộc sống bình yên, an toàn, lành mạnh cho người dân.
Tuy nhiên, bên cạnh thành tựu, việc bảo đảm an ninh con người ở Việt Nam phải đối mặt không ít thách thức. Tình hình thế giới có nhiều diễn biến phức tạp, khó lường, đe dọa nghiêm trọng trên nhiều phương diện, từ an ninh kinh tế, an ninh lương thực, an ninh y tế, an ninh cá nhân, an ninh chính trị. Những nguy cơ này được xác định khó kiểm soát, gây ảnh hưởng mang tính xuyên quốc gia. Đơn cử như, trước cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu do đại dịch COVID-19, chuỗi cung ứng hàng hóa toàn cầu bị đứt gãy, các cuộc xung đột khu vực, quốc tế,… nền kinh tế Việt Nam đã có sự phục hồi, song chưa thực sự mạnh mẽ và bền vững, dẫn tới việc thực hiện chính sách xã hội, bảo đảm việc làm, thu nhập cho người dân chưa thực sự hiệu quả. Việc bảo đảm an ninh lương thực gặp nhiều khó khăn, do dịch bệnh, thiên tai, lũ lụt,… dẫn tới giảm sản lượng nông nghiệp, ảnh hưởng tới nguồn dự trữ lương thực quốc gia. Việc bảo đảm an ninh y tế chịu tác động từ tình hình khu vực và thế giới, hợp tác quốc tế trong y tế dự phòng còn hạn chế. Bảo đảm an ninh cộng đồng bị tác động của quá trình toàn cầu hóa, cạnh tranh quốc tế; âm mưu “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch, phản động; tác động từ cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, an ninh mạng,…
Ở trong nước còn bộc lộ một số bất cập: Quản lý phát triển xã hội và giải quyết một số vấn đề xã hội chưa được kết hợp đồng bộ trong quá trình phát triển kinh tế, xã hội; tình trạng gia tăng tội phạm, mâu thuẫn, xung đột xã hội... ở một số nơi chậm được khắc phục; khoảng cách phát triển giữa các địa phương, vùng, miền còn lớn; phạm vi bao phủ và khả năng giải quyết rủi ro của chính sách an sinh xã hội còn thấp… Nguyên nhân là do việc nhận thức của các cấp, các ngành, của người dân về các nguy cơ đe dọa đến bảo đảm an ninh con người, nhất là những vấn đề mới, nguy cơ đang tiềm ẩn chưa kịp thời, chưa được tuyên truyền hiệu quả. Khả năng phòng ngừa, ứng phó với nguy cơ đe dọa đến an ninh con người chưa đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ mới. Công tác nghiên cứu, tổng kết thực tiễn phòng ngừa, ứng phó với các nguy cơ đe dọa tới công tác bảo đảm an ninh con người tại Việt Nam chưa thực sự bám sát diễn biến tình hình.
Để nâng cao hơn nữa hiệu quả bảo đảm an ninh con người trong tình hình mới, cần phải có tầm nhìn mới, khả năng kiểm soát hiệu quả trong thực thi các biện pháp. Trước hết, nhóm biện pháp chủ yếu như “phòng ngừa, ứng phó và thích nghi” cần đáp ứng kịp thời những yêu cầu mới trước những biến động của thế giới và trong nước. Trong đó, “phòng ngừa” cần các biện pháp tối thiểu hóa nguy cơ xảy ra bất ngờ và giảm thiểu mức độ dễ bị tổn thương của các cá nhân, cộng đồng (như dịch bệnh, biến đổi khí hậu…); “ứng phó” cần các hoạt động phản ứng, can thiệp, xử lý, cứu trợ, tái thiết khi nguy cơ, đe dọa đã xảy ra (trường hợp chiến tranh, xung đột,..); “thích nghi/thích ứng” bao hàm các biện pháp tự điều chỉnh, tự thay đổi để có thể tồn tại và phát triển trong điều kiện các nguy cơ, đe dọa thường trực hay không có cách nào phòng ngừa hay ứng phó (như dịch bệnh, xung đột, tội phạm xuyên quốc gia,…).
Do vậy, nhằm tăng cường khả năng kháng cự (sức chịu đựng, chống đỡ, phản ứng lại các đe dọa, thách thức) và khả năng chống chịu (sự phục hồi) cho các cá nhân, cộng đồng, cần tiếp tục nhận thức sâu sắc các nội dung sau:
Thứ nhất, bảo đảm an ninh con người phải gắn kết chặt chẽ với độc lập chủ quyền của quốc gia, dân tộc, của chế độ xã hội chủ nghĩa. Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, lợi ích quốc gia - dân tộc; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước.
Thứ hai, bảo đảm quyền con người, coi con người là chủ thể, nguồn lực chủ yếu và là mục tiêu phát triển trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Việt Nam là Nhà nước của dân, do dân và vì dân, theo đó bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của nhân dân; công nhận, tôn trọng, bảo vệ quyền con người, quyền công dân. Chủ động tạo điều kiện nâng cao khả năng sáng tạo và phát triển của con người Việt Nam; nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, chăm lo lợi ích chính đáng của người dân.
Thứ ba, phát triển kinh tế bền vững gắn với tiến bộ và công bằng xã hội. Thực hiện các chính sách giảm nghèo đa chiều bền vững, thu hẹp khoảng cách phát triển, bảo đảm an sinh xã hội, bảo vệ môi trường. Tiếp tục thực hiện phương châm “không để ai bị bỏ lại phía sau trong quá trình phát triển”; đồng thời, tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng chính sách xã hội theo hướng toàn diện, hiện đại, bao trùm, bền vững, hội nhập trên tinh thần nhân dân là trung tâm, là chủ thể. Thực hiện tốt chính sách bảo đảm an sinh xã hội. Nỗ lực hoàn thành các mục tiêu, chương trình vì sự phát triển bền vững, vì con người, tạo điều kiện cho mọi người dân tiếp cận bình đẳng nguồn lực, cơ hội phát triển và hưởng thụ công bằng các dịch vụ xã hội cơ bản./.
------------------------
(1) “Human Development Report 1994”, UNDP, ngày 1-1-1994, https://hdr.undp.org/content/human-development-report-1994
(2) Hans Günter Brauch: Coping with Global Environmental Change, Disasters and Security: Threats, Challenges, Vulnerabilities and Risks (Tạm dịch: Đối phó với biến đổi môi trường toàn cầu, thảm họa và an ninh: Các mối đe dọa, thách thức, điểm yếu và rủi ro), Springer, 2011
(3) Đặng Xuân Thanh, Đào thị Minh Hương: Đảm bảo an ninh con người Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 2016, tr. 65
(4) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 6, tr. 130
(5) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 11, tr. 610
(6) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 1, tr. XXVII
(7), (8) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 4, tr. 175
(9) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2016, tr. 219
(10), (11), (12), (24) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. I, tr. 116, 117, 147 - 148, 113
(13) Tô Lâm: “Một số nội dung cơ bản về kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc; những định hướng chiến lược đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc”, Tạp chí Cộng sản điện tử, ngày 1-11-2024, https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/chi-tiet-tim-kiem/-/2018/1005602/mot-so-noi-dung-co-ban-ve-ky-nguyen-moi%2C-ky-nguyen-vuon-minh-cua-dan-toc%3B-nhung-%C4%91inh-huong-chien-luoc-%C4%91ua-%C4%91at-nuoc-buoc-vao-ky-nguyen-moi%2C-ky-nguyen-vuon-minh-cua-dan-toc*.aspx#
(14) “Quy mô nền kinh tế Việt Nam đạt khoảng 430 tỷ USD”, Báo Nhân dân điện tử, ngày 1-1-2024, https://nhandan.vn/quy-mo-nen-kinh-te-viet-nam-dat-khoang-430-ty-usd-post790174.html
(15), (16), (22) “Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội quý IV và năm 2024”, Cơ quan thống kê quốc gia, 2024, https://www.nso.gov.vn/bai-top/2025/01/bao-cao-tinh-hinh-kinh-te-xa-hoi-quy-iv-va-nam-2024/
(17) Quang Minh: “Thành tựu giảm nghèo ở Việt Nam là không thể phủ nhận”, Báo Nhân dân điện tử, ngày 6-2-2024, https://nhandan.vn/thanh-tuu-giam-ngheo-o-viet-nam-la-khong-the-phu-nhan-post795442.html
(18) “Tỷ lệ nghèo đa chiều toàn quốc năm 2024 là 4,06%”, Báo Nhân dân điện tử, ngày 10-2-2025, https://nhandan.vn/ty-le-ngheo-da-chieu-toan-quoc-nam-2024-la-406-post859379.html
(19) Kết luận số 81-KL/TW, ngày 29-7-2020, của Bộ Chính trị, “Về bảo đảm an ninh lương thực quốc gia đến năm 2030”; Nghị quyết số 34/NQ-CP, ngày 25-3-2021, của Chính phủ, “Về việc đảm bảo an ninh lương thực quốc gia đến năm 2030”; Quyết định số 150/QĐ-TTg, ngày 28-1-2022, của Chính phủ, “Về phê duyệt Chiến lược phát triển nông nghiệp và nông thôn bền vững giai đoạn 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050”; “Kế hoạch hành động quốc gia chuyển đổi Hệ thống lương thực thực phẩm minh bạch, trách nhiệm và bền vững ở Việt Nam đến năm 2030”, ngày 28-3-2023, của Chính phủ
(20) Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2022, tr. 31
(21) Trong vòng 10 năm qua, sản xuất lương thực, thực phẩm liên tục phát triển; sản lượng lúa tăng từ 39,17 triệu tấn năm 2009 lên 43,45 triệu tấn năm 2019, bình quân lương thực tăng từ 497 kg/người/năm (năm 2009) lên trên 525 kg/người/năm (năm 2019), đưa Việt Nam vào nhóm nước hàng đầu về sản xuất lương thực
(23) Điều 38 trong Hiến pháp năm 2013 quy định: “Mọi người có quyền được bảo vệ, chăm sóc sức khỏe, bình đẳng trong việc sử dụng các dịch vụ y tế và có nghĩa vụ thực hiện các quy định về phòng bệnh, khám bệnh, chữa bệnh”. Trên cơ sở đó, một loạt văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến lĩnh vực y tế được ban hành, như Nghị quyết số 20-NQ/TW, ngày 25-10-2017, Hội nghị lần thứ sau Ban Chấp hành Trung ương khóa XII, “Về tăng cường công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân trong tình hình mới”; Luật khám bệnh, chữa bệnh được Quốc hội khóa XV thông qua ngày 9-1-2023, có hiệu lực từ ngày 1-1-2024
(25) Giai đoạn 2014 - 2024, tỷ lệ hộ sử dụng nguồn nước hợp vệ sinh luôn trên 93%, năm 2024 là 98,7% . Tỷ lệ thu gom và xử lý chất thải rắn sinh hoạt đô thị bảo đảm tiêu chuẩn, quy chuẩn, đạt 97,26; tỷ lệ khu công nghiệp, khu chế xuất đang hoạt động có hệ thống xử lý nước thải tập trung đạt tiêu chuẩn môi trường đạt 94,9. Xem: “Kiến nghị kinh tế hóa môi trường, nâng cao hiệu quả công cụ thuế, phí môi trường, hạn ngạch phát thải”, Trung tâm WTO VCCI, ngày 3-10-2025, https://trungtamwto.vn/tin-tuc/30754-kien-nghi-kinh-te-hoa-moi-truong-nang-cao-hieu-qua-cong-cu-thue-phi-moi-truong-han-ngach-phat-thai
Phát huy giá trị di sản văn hóa vùng biển, đảo nước ta hiện nay  (19/09/2025)
Xu hướng đầu tư trực tiếp nước ngoài của Liên minh châu Âu: Cơ hội và thách thức đối với Việt Nam  (19/07/2025)
Giải pháp thực hiện các chính sách kinh tế - liên quan đến mối quan hệ dân tộc, tộc người với tôn giáo  (30/06/2025)
- Quan điểm, chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về công tác tuyên truyền, vận động quần chúng nhân dân - Một số vấn đề đặt ra đối với việc vận dụng, phát triển trong kỷ nguyên mới của đất nước
- Mô hình tổ hợp công nghiệp quốc phòng và việc xây dựng tổ hợp công nghiệp quốc phòng ở Việt Nam trong tình hình mới
- Bảo đảm quyền trẻ em trong mô hình chính quyền địa phương 2 cấp: Thuận lợi, thách thức và giải pháp
- Kinh nghiệm thực hiện mô hình “bí thư chi bộ đồng thời là trưởng thôn, bản, tổ dân phố” ở Trung Quốc - Vận dụng cho thực tiễn Việt Nam trong giai đoạn hiện nay
- Phát triển văn hóa gắn với phát triển kinh tế và phát triển xã hội: Quá trình tất yếu, hướng đích của hệ mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”
-
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Cuộc chiến đấu bảo vệ Thành cổ Quảng Trị năm 1972 - khát vọng độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - Bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX -
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Chiến thắng Điện Biên Phủ - Bài học lịch sử và ý nghĩa đối với sự nghiệp đổi mới hiện nay -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Đổi mới tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị “tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả” theo tinh thần định hướng của Đồng chí GS, TS, Tổng Bí thư Tô Lâm