Phát triển tài chính toàn diện trên cơ sở mối quan hệ với công nghệ tài chính và hàm ý chính sách cho Việt Nam
TCCS - Tài chính toàn diện là một trong những mục tiêu quan trọng của các quốc gia, góp phần phát triển bền vững. Để thúc đẩy tài chính toàn diện, một trong những nhân tố quan trọng là sử dụng công nghệ tài chính, đặc biệt trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, mang tới mức độ thuận tiện, tính kinh tế khi sử dụng dịch vụ tài chính.

Thực trạng và các yếu tố thúc đẩy tài chính toàn diện ở các quốc gia
Tài chính toàn diện là vấn đề cấp thiết giúp cải thiện mức an sinh xã hội, đặc biệt cho người nghèo và các đối tượng dễ bị tổn thương trong nền kinh tế. Việc gia tăng các hình thức tiếp cận của các đối tượng nói trên với các dịch vụ tài chính, như thanh toán, tiết kiệm, bảo hiểm, tín dụng,… chính là giải pháp hỗ trợ người dân kiểm soát tài chính tốt hơn, mang lại mức sống cao hơn cho bản thân và gia đình, từ đó đóng góp vào sự phát triển kinh tế và xóa đói giảm nghèo. Tài chính toàn diện cũng thúc đẩy tiết kiệm và đầu tư, tăng trưởng kinh tế trong ngắn hạn và dài hạn. Như vậy, việc thúc đẩy tài chính toàn diện là mục tiêu quan trọng với tất cả các quốc gia, đặt ra yêu cầu xác định các nhân tố ảnh hưởng tích cực, góp phần phát triển tài chính toàn diện. Trong cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, công nghệ là một yếu tố không thể không nhắc đến và công nghệ tài chính (fintech) cũng được xác định có nhiều đóng góp quan trọng nhằm thúc đẩy phát triển tài chính toàn diện trên cả phương diện lý thuyết và thực tiễn tại nhiều quốc gia. Nhiều nghiên cứu cho thấy, fintech hỗ trợ thúc đẩy tài chính toàn diện nhanh chóng và sâu rộng hơn, đồng thời liên kết các yếu tố ảnh hưởng khác, chỉ ra cơ chế tác động cộng hưởng.
Ở các nền kinh tế phát triển, như Mỹ, Anh, Nhật Bản, hệ thống tài chính của các quốc gia này được coi là chuyên nghiệp, hiệu quả và đáng tin cậy. Để phát triển tài chính toàn diện, Mỹ đã cố gắng liên kết các thước đo hiểu biết về tài chính với các hành vi kinh tế và tài chính khác. Đạo luật Tái đầu tư cộng đồng của Mỹ năm 1997 cấm các ngân hàng chỉ tập trung vào các khu vực giàu có và yêu cầu cung cấp tín dụng cho toàn bộ cộng đồng. Ở Anh, Chính phủ thành lập lực lượng đặc nhiệm tài chính toàn diện vào năm 2005. Luật của Pháp năm 1998 cũng đề cao việc tôn trọng quyền của cá nhân đối với tài khoản ngân hàng. Hiệp hội Ngân hàng Đức cũng đưa ra mã tự nguyện vào năm 1996 để cung cấp tài khoản ngân hàng cho công dân, từ đó tạo điều kiện thuận lợi cho các giao dịch ngân hàng cơ bản.
Không giống với các quốc gia phát triển, sự lan tỏa của tài chính toàn diện ở các quốc gia đang phát triển gặp phải nhiều thách thức và khó khăn hơn. Nhiều quốc gia vẫn đang phải đối mặt với sự thiếu hụt nguồn lực tài chính, kết cấu hạ tầng xuống cấp và các rào cản về tiếp cận dịch vụ tài chính. Nhiều người dân trong các quốc gia này vẫn chưa tiếp cận được các dịch vụ tài chính cơ bản, như tài khoản ngân hàng, bảo hiểm, vay vốn để kinh doanh…
Trong quá trình triển khai tài chính toàn diện, các quốc gia đối mặt với các thách thức chủ yếu là: Bảo đảm cho nhóm dân số khó tiếp cận với dịch vụ tài chính như phụ nữ và người nghèo ở khu vực xa truy cập được tới các dịch vụ tài chính; nâng cao mức độ hiểu biết và năng lực về tài chính của người dân để họ có thể hiểu, sử dụng các sản phẩm dịch vụ tài chính ngân hàng khác nhau; bảo đảm người dân có giấy tờ tùy thân hợp lệ và phương thức dễ dàng với chi phí hợp lý để xác định, nhận dạng; ban hành các sản phẩm tài chính hữu ích và thiết thực với nhu cầu của khách hàng; hoàn chỉnh khung pháp lý để bảo vệ cho khách hàng.
Tại Việt Nam, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 149/QĐ-TTg, ngày 22-1-2020, phê duyệt Chiến lược tài chính toàn diện quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030. Trên thực tế, vẫn còn một tỷ lệ lớn người Việt Nam không thể tiếp cận, tham gia hệ thống tài chính chính thức, mặc dù có nhu cầu hoặc đang thực hiện nhiều giao dịch tài chính. Có tới 39% số người trưởng thành gửi tiền tiết kiệm ở các kênh không chính thức. Một tỷ lệ khác gửi hoặc nhận tiền, thanh toán các dịch vụ thiết yếu bằng tiền mặt, không qua hệ thống chính thức.
Theo Ngân hàng Thế giới (WB), một số rào cản chính đối với tiếp cận và sử dụng dịch vụ tài chính chính thức ở Việt Nam, bao gồm: Địa bàn quá xa; chi phí quá cao; thủ tục hành chính quá phức tạp khi mở tài khoản và thực hiện các giao dịch; thiếu sự tin tưởng vào hệ thống tài chính.
Đồng thời, với sự thay đổi hành vi của người tiêu dùng, trong bối cảnh đại dịch COVID-19 và liên tục các công nghệ mới ra đời hỗ trợ cho việc tiếp cận, sử dụng dịch vụ tài chính của cá nhân, những năm qua, tài chính toàn diện được thúc đẩy mạnh mẽ trên toàn thế giới. Chỉ trong 4 năm từ năm 2017 đến năm 2021, bình quân trên thế giới người dân sử dụng tài khoản và dịch vụ tài chính tăng từ 68,5% lên 76,2%. Ngoại trừ Singapore và Nhật Bản không có sự cải thiện do đã có tỷ lệ gần đạt đến 100%, các quốc gia đang phát triển, đặc biệt là ở Đông Á tỷ lệ này tăng tới hơn 10%. Riêng Việt Nam, WB ghi nhận mức tăng gần gấp đôi từ 30,8% năm 2017 lên 56,3% năm 2022.
Mối quan hệ giữa công nghệ tài chính và tài chính toàn diện
Fintech (kết hợp từ Financial Technology) là thuật ngữ được hình thành trên cơ sở kết hợp giữa công nghệ và tài chính. Kể từ khi làn sóng khởi nghiệp tập trung vào lĩnh vực công nghệ trong tài chính nổi lên sau khủng hoảng kinh tế thế giới năm 2008, fintech trở thành đại diện cho cuộc cách mạng kỹ thuật số, có thể thay đổi hoàn toàn phương thức kinh doanh của ngành ngân hàng, tài chính.
Ngày nay, sử dụng công nghệ tài chính là một trong những chiến lược đổi mới của các tổ chức tài chính để cạnh tranh và tăng cường sử dụng dịch vụ tài chính. Việc thế giới số hóa với tốc độ chóng mặt và môi trường tài chính liên tục cập nhật được xem là yếu tố giúp tăng hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp, thúc đẩy cải tiến hiệu suất và tạo cảm giác hài lòng cho người dùng công nghệ tài chính. Nhìn chung, trên thế giới chưa có khái niệm thống nhất về fintech, tuy nhiên khi nhắc đến fintech là nhắc đến việc sử dụng sáng kiến, công nghệ mới để cung ứng các dịch vụ tài chính. Với các quốc gia đang phát triển, công nghệ tài chính là một phương tiện để tiếp cận thị trường tài chính, tuy nhiên chưa phải là giải pháp toàn diện cho các vấn đề còn tồn tại trên thị trường tài chính.
Fintech giúp phát triển tài chính toàn diện thông qua 2 cách chính là: 1- Tăng cường tiếp cận tài chính cho mọi đối tượng trong xã hội, bao gồm cả người nghèo, người không có điều kiện tiếp cận dịch vụ tài chính,... 2- Sự tiện lợi khi sử dụng có thể gia tăng các hình thức huy động, tiết kiệm và đầu tư trong xã hội. Trên thực tế, cả 2 động lực mà tài chính toàn diện tạo ra có tính bổ trợ lẫn nhau, từ đó thúc đẩy tối đa các hoạt động tài chính và góp phần phát triển kinh tế.
Bên cạnh đó, fintech cung cấp các dịch vụ tài chính với chi phí thấp hơn, quy mô và mức độ tiếp cận tốt hơn, nhiều tiện ích trải nghiệm cho khách hàng, minh bạch, giảm nguy cơ rửa tiền, tiền giả, chi phí in và quản lý tiền mặt cho nhà quản lý. Tài chính toàn diện phát huy hiệu quả tối đa thông qua ứng dụng fintech để giúp các đối tượng yếu thế trong xã hội (người nghèo, người thu nhập thấp, doanh nghiệp siêu nhỏ, doanh nghiệp nhỏ và vừa), đặc biệt trong các trường hợp thiên tai hoặc như đại dịch COVID-19 vừa qua.
Thông qua một số hình thức, như cung cấp dịch vụ thanh toán minh bạch và an toàn sử dụng ứng dụng công nghệ; phân đoạn sản phẩm và chấm điểm tín dụng qua dữ liệu lớn (big data); sử dụng giải pháp nhận dạng kỹ thuật số để xác minh giao dịch nhanh chóng và thuận tiện hơn; thông qua các giải pháp giám sát tài chính điện tử (RegTech) để tăng cường tiêu chuẩn tuân thủ tài chính; thực hiện giao dịch và lưu trữ giao dịch hiệu quả thông qua điện toán đám mây, fintech đã và đang mang lại nhiều lợi ích cho tài chính toàn diện trên toàn thế giới, đóng vai trò quan trọng trong vấn đề đổi mới công nghệ để cải thiện sự tối ưu của thị trường tài chính, gia tăng trải nghiệm tổng thể của khách hàng.
Nhóm các nền kinh tế lớn (G20) cũng khẳng định tầm quan trọng của fintech đối với tài chính toàn diện thông qua việc cam kết thực hiện các nguyên tắc cấp cao của G20 về tài chính toàn diện kỹ thuật số (G20 High-level Principles for Digital Financial Inclusion). Ngân hàng Thế giới cũng chỉ ra vai trò của fintech trong việc thúc đẩy sự phát triển của các tổ chức tín dụng. Nhìn chung, fintech đã và đang khắc phục những lỗ hổng của ngành tài chính hiện tại bằng việc đưa ra những giải pháp vượt trội mà cách làm truyền thống không thể đạt được. Các giải pháp fintech mang đến 5 ưu điểm đặc biệt là:
Sự tiếp cận: Fintech có thể đem đến các sản phẩm, dịch vụ tài chính tiện dụng, có thể sử dụng mọi lúc, mọi nơi mà không bị giới hạn về thời gian - địa lý. Điều này là động lực cho tài chính toàn diện. Hàng loạt ngân hàng thương mại đã triển khai các ngân hàng số (Digital Banking) cho phép khách hàng thanh toán điện tử 24/24 mà không cần đến phòng giao dịch nhờ vào công nghệ định danh điện tử (eKYC), hay ứng dụng công nghệ phân tích dữ liệu vào quy trình phát hành thẻ tín dụng online,...
Tiết kiệm chi phí: Việc cung cấp sản phẩm, dịch vụ nhờ công nghệ có thể giảm bớt các chi phí không cần thiết, giúp dễ dàng tiếp cận hơn với các nhóm khách hàng thu nhập thấp. Theo báo cáo của McKinsey năm 2016, mỗi giao dịch thực hiện trên kênh kỹ thuật số sẽ giảm từ 80 - 90% chi phí so với cách thức truyền thống.
An toàn và minh bạch: Không sử dụng tiền mặt, mọi giao dịch điện tử đều được ghi lại rõ ràng, khách quan và từ đó bảo đảm minh bạch tài chính cho các bên. Đồng thời, cũng an toàn hơn cho người dùng so với việc sử dụng tiền mặt.
Đa dạng sản phẩm và kênh phân phối: Các giải pháp công nghệ đã mở ra hướng tiếp cận mới với các sản phẩm, dịch vụ tài chính, chúng tạo ra nhiều sản phẩm, dịch vụ mới tiện dụng và dễ dàng sử dụng hơn so với các phương pháp truyền thống.
Hiệu quả cao: So với các sản phẩm, dịch vụ truyền thống, các sản phẩm, dịch vụ tài chính hiện tại đem đến hiệu quả cao hơn với cả người sử dụng và nhà cung cấp, cho phép tối ưu hóa nguồn lực và giải quyết nhiều giao dịch, thao tác khác nhau.
Một số nghiên cứu gần đây tiếp cận theo hướng chỉ ra cơ chế tác động giữa fintech, tài chính toàn diện và các yếu tố liên quan, như hiểu biết tài chính của người dân, niềm tin, sự sẵn sàng tham gia hay khả năng sử dụng công nghệ,... Theo đó, có mối quan hệ cộng hưởng qua lại và thúc đẩy lẫn nhau giữa khả năng sử dụng công nghệ, tác động tích cực đến hiểu biết tài chính của người dân và từ việc có hiểu biết, niềm tin cũng thúc đẩy người dân sử dụng dịch vụ tài chính số, tăng cường tài chính toàn diện. Trong trường hợp phân tách loại hình tham gia tài chính toàn diện là chủ động (như trường hợp vay vốn ngân hàng chính sách xã hội) hay thụ động (các tổ chức cung cấp dịch vụ, mở tài khoản,...) thì mức độ tác động của việc sử dụng fintech cũng có thể có sự khác biệt. Điều này cung cấp gợi ý cho các nhà cung ứng dịch vụ lựa chọn đối tượng để thúc đẩy có hiệu quả việc phát triển khách hàng.
Có thể nói, với các dịch vụ fintech, bao gồm cả những dịch vụ liên quan đến việc sử dụng điện thoại di động, hiện đã được triển khai tại hơn 80 quốc gia, với một số đạt đến quy mô đáng kể. Hàng triệu khách hàng nghèo trước đây bị loại trừ và không được phục vụ đang chuyển từ các giao dịch bằng tiền mặt sang các dịch vụ tài chính chính thức - thanh toán, chuyển khoản, tiết kiệm, tín dụng, bảo hiểm và thậm chí là chứng khoán - sử dụng điện thoại di động hoặc công nghệ kỹ thuật số khác để truy cập các dịch vụ. Tuy nhiên, làn sóng này cũng tiềm ẩn những rủi ro cụ thể do các dịch vụ mới gây ra, như phát sinh mối quan hệ hợp đồng mới giữa các tổ chức tài chính và bên thứ ba, khó quản lý do quy tắc khác nhau của các sản phẩm khác tiền gửi, tiền vay truyền thống, hay chi phí chưa biết và chưa dự đoán được đối với người tiêu dùng thiếu kinh nghiệm và dễ bị tổn thương và khó quản lý bảo mật dữ liệu và quyền riêng tư.

Một số hàm ý chính sách
Mặc dù đã có những chuyển biến mạnh mẽ thời gian qua, mức độ phát triển tài chính toàn diện ở Việt Nam vẫn thấp hơn so với các nước có thu nhập trung bình và còn cách xa so với các nước đang phát triển, như Trung Quốc và Thái Lan với lượng truy cập tài khoản ở mức tương ứng đạt xấp xỉ trên 90%. Những vấn đề chính còn hạn chế việc phổ cập tài chính ở Việt Nam hiện nay là:
Một là, hệ thống mạng lưới ngân hàng chủ yếu tập trung tại thành thị, ít phát triển đến vùng nông thôn. Trên thực tế, nhà cung cấp chính của các dịch vụ tài chính - chủ yếu là tín dụng dành cho người thu nhập thấp ở khu vực nông thôn vẫn là Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và Ngân hàng Chính sách xã hội với sự định hướng của Chính phủ thông qua trợ cấp và mục tiêu cho vay chính sách xã hội; tín dụng qua kênh chính thức, lãi suất hợp lý vẫn còn hạn chế.
Các sản phẩm tài chính cho các nhóm thu nhập thấp ngoài các khoản cho vay chính sách còn khó triển khai, thanh toán đạt được mức nhất định nhưng vẫn chỉ ở quy mô nhỏ. Tiết kiệm và các dịch vụ bảo hiểm vi mô chưa phát triển và phổ cập. Một số tổ chức cung cấp dịch vụ ở khu vực nông thôn còn chưa đạt được hiệu quả kỳ vọng (các phòng giao dịch bưu điện, tổ chức tài chính vi mô).
Hai là, khung pháp lý tuy đã được đồng bộ và hoàn thiện trong thời gian qua (sự ra đời của các quy định, chính sách quản lý về tài chính toàn diện, cho vay trực tuyến, định danh điện tử,...), tuy nhiên, còn có sự phân tán trong quản lý, thúc đẩy tài chính toàn diện đến tất cả người dân; vẫn còn chồng chéo trong quản lý. Điển hình như việc quản lý về thanh toán, cho vay đang thuộc về Ngân hàng Nhà nước Việt Nam nhưng các chính sách về bảo hiểm vi mô, bảo hiểm xã hội, thông tin về nhân thân, cư trú còn quản lý phân tán ở nhiều bộ, ngành, việc liên thông, hỗ trợ thúc đẩy chưa đồng bộ và nhất quán. Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư vẫn cần tiếp tục hoàn thiện, bổ sung và chia sẻ. Chưa có quy định chung về đại lý ngân hàng.
Ba là, hiểu biết tài chính và sự sẵn sàng tham gia của người dân, doanh nghiệp nhỏ và vừa cần tiếp tục được nâng cao, bảo đảm đáp ứng các tiêu chuẩn cấp tín dụng; hạn chế tham gia các hình thức tín dụng phi chính thức, tín dụng đen.
Bốn là, việc phát triển đa dạng, nhanh chóng của các dịch vụ sử dụng công nghệ tài chính còn nhiều khó khăn, thách thức trong việc quản lý. Đặc biệt với các dịch vụ, như cho vay ngang hàng, chuyển tiền xuyên biên giới, chấm điểm tín dụng, chia sẻ dữ liệu mở,… tiềm ẩn nhiều vấn đề liên quan đến nguy cơ rửa tiền và tài trợ khủng bố, an ninh mạng, bảo vệ dữ liệu người dùng, bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng và nhà đầu tư…
Trên cơ sở những vấn đề đặt ra, để thúc đẩy hơn nữa việc phát triển tài chính toàn diện ở Việt Nam, giải quyết các điểm nghẽn và thách thức, thời gian tới cần thực hiện tốt một số vấn đề sau:
Thứ nhất, tiếp tục hoàn thiện khung pháp lý và kết cấu hạ tầng tài chính hỗ trợ tài chính toàn diện. Cần sớm nghiên cứu, xây dựng khung pháp lý để quản lý, điều chỉnh các hình thức cấp tín dụng ngoài cho vay của ngân hàng truyền thống, tài sản ảo, tiền điện tử và các tổ chức cung ứng dịch vụ tài sản này cũng như cơ sở pháp lý để triển khai mạng lưới đại lý ngân hàng. Đồng thời, giữ ổn định, nhất quán các quy tắc và cơ sở dữ liệu về dân cư và doanh nghiệp, liên thông dữ liệu giữa các bộ, ngành và hệ thống tài chính để chuẩn hóa, từ đó khai thác có hiệu quả, an toàn cơ sở dữ liệu quốc gia.
Thứ hai, tăng cường đào tạo, nâng cao kiến thức tài chính, cách tiếp cận và sử dụng điện thoại thông minh cho người dùng ở khu vực nông thôn và xa trung tâm. Các tổ chức, công ty cũng có thể nghiên cứu kế hoạch cung cấp điện thoại thông minh và máy tính bảng giá rẻ để khuyến khích người dân sử dụng, từ đó tăng doanh số bán các sản phẩm tài chính. Ngoài ra, đối với các cơ quan quản lý nhà nước, cần ban hành các chính sách giúp người dân có cái nhìn sâu sắc hơn về tình hình tài chính toàn diện của mình và thúc đẩy họ lựa chọn các sản phẩm fintech phù hợp với nhu cầu cá nhân, đặc biệt là các dịch vụ bảo hiểm vi mô, tiết kiệm, lập kế hoạch đầu tư...
Thứ ba, nâng cao vai trò giám sát triển khai chiến lược quốc gia về tài chính toàn diện. Cần có bộ chỉ số chính thức để giám sát và đánh giá chất lượng triển khai chiến lược một cách chính xác. Hiện nay, có tình trạng trùng lặp dữ liệu khi tổng hợp khách hàng có nhiều tài khoản ở các tổ chức tài chính. Một số ngân hàng chạy chỉ tiêu mở tài khoản số lượng lớn song người dân không sử dụng. Cần nghiên cứu chính sách quản lý chặt chẽ hơn với các tài khoản không sử dụng, gây lãng phí tài nguyên và mất an toàn, rủi ro cho hệ thống tài chính. Việt Nam có cơ sở để hướng tới việc chấm điểm tín dụng người dân trên toàn quốc như các quốc gia tiên tiến trên thế giới đã áp dụng. Điều này vừa tạo cơ sở dữ liệu cho việc cấp tín dụng trên quy mô lớn đồng thời giúp người dân tự giác nâng cao ý thức, điều chỉnh hành vi cho phù hợp cũng như hiểu biết, tính chủ động tham gia các dịch vụ tài chính.
Thứ tư, Chính phủ và các tổ chức tài chính cần có kế hoạch tài chính hằng năm, đầu tư thích đáng cho vấn đề an toàn, bảo mật, hạn chế tối đa những lỗ hổng và nguy cơ tấn công gây mất an toàn dữ liệu. Đây là yếu tố quan trọng để bảo đảm ổn định hệ thống, tạo niềm tin cho người sử dụng và tham gia tích cực đối với tài chính toàn diện.
Thứ năm, cân nhắc lựa chọn chính sách theo từng nhóm đối tượng dựa trên đánh giá, khảo sát, quyết định dựa trên dữ liệu. Trong bối cảnh không gian chính sách và mức độ cạnh tranh trong ngành tài chính ngày càng trở nên gay gắt, các nhóm đối tượng người dân ở vùng sâu, vùng xa chính là những khách hàng mang đến nhiều cơ hội hấp dẫn. Việc phân nhóm và đánh giá hiệu quả chính sách, hiệu quả cung ứng sản phẩm dựa trên cơ sở quy trình thử nghiệm, dữ liệu thu thập sẽ góp phần tạo ra các chính sách và yếu tố để phát triển mạnh hơn nữa việc thúc đẩy tài chính toàn diện ở Việt Nam./.
Kinh tế Việt Nam năm 2024 và triển vọng năm 2025  (27/01/2025)
Bảo đảm quyền lợi của người lao động trong mô hình kinh tế chia sẻ  (15/01/2025)
- Tăng cường công tác tư tưởng đối với quân nhân ở đơn vị cơ sở trong quân đội hiện nay
- Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp tiếp cận theo lý thuyết phát triển bền vững trong bối cảnh thực hiện các hiệp định tự do thế hệ mới: Giải pháp cho Việt Nam
- Đổi mới, nâng cao chất lượng công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ cấp chiến lược, đáp ứng yêu cầu trong kỷ nguyên phát triển mới của dân tộc
- Các quốc gia tầm trung trong bối cảnh mới và hàm ý chính sách đối với Việt Nam đến năm 2030
- Vai trò của báo chí trong truyền thông chính sách về đa dạng văn hóa
-
Chính trị - Xây dựng Đảng
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - Bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Một số lý giải về cuộc xung đột Nga - Ukraine hiện nay và tính toán chiến lược của các bên -
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Chiến thắng Điện Biên Phủ - Bài học lịch sử và ý nghĩa đối với sự nghiệp đổi mới hiện nay -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến thế giới, khu vực và Việt Nam -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển