Về tính chính danh của Đảng Cộng sản Việt Nam trong Dự thảo các văn kiện Đại hội XIV
TCCS - Hơn 95 năm qua, Đảng lãnh đạo cách mạng Việt Nam dành được những thành tựu vĩ đại, có ý nghĩa lịch sử và thời đại trên tất cả các lĩnh vực; tạo cơ đồ, vị thế, uy tín quốc gia chưa từng có. Tuy nhiên, các thế lực thù địch vẫn luôn tìm cách phủ nhận thành quả cách mạng Việt Nam, với mục đích làm chệch hướng xã hội chủ nghĩa, xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng. Để bảo vệ và khẳng định tính chính danh của Đảng, bảo vệ thành quả cách mạng, cần tích cực đấu tranh với các luận điệu xuyên tạc, sai trái, thù địch bằng các giải pháp phù hợp, góp phần tăng cường sự đồng thuận và niềm tin lý tưởng xã hội chủ nghĩa, khẳng định tính chính danh của Đảng Cộng sản Việt Nam.
“Chính danh” được hiểu là sự phù hợp, tương xứng giữa “danh” (tên gọi, danh xưng, chức vị, địa vị) và “thực” (thực chất, bản chất, trách nhiệm, vai trò, hành động tương ứng). “Tính chính danh” của một chủ thể trong đời sống chính trị là kết quả dựa trên cơ sở lý luận khoa học và thực tiễn, phản ánh tính chính đáng sâu sắc; bao gồm sự thừa nhận, ủng hộ của xã hội đối với chủ thể chính trị. Với một tổ chức chính trị cầm quyền, tính chính danh xác lập vai trò đại diện xã hội, đại diện thể chế; thực hiện chức năng lãnh đạo, dẫn dắt, định hướng xây dựng và phát triển xã hội, thể chế chính trị.
Đảng Cộng sản Việt Nam giữ vai trò lãnh đạo Nhà nước và xã hội Việt Nam trong suốt quá trình đấu tranh giành độc lập dân tộc, thống nhất đất nước và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Sự lãnh đạo của Đảng là lựa chọn tất yếu của lịch sử, phù hợp với ý chí, nguyện vọng của nhân dân; không một thế lực phản động, thù địch nào có thể phủ nhận tính chính danh của Đảng.
Cơ sở lý luận và lịch sử xác lập tính chính danh của Đảng Cộng sản Việt Nam
Khi thực dân Pháp nổ súng xâm lược nước ta, đất nước Việt Nam và người dân bị tước đoạt quyền tự do, tài sản, nhân phẩm và văn hóa. Trong bối cảnh đen tối ấy, độc lập, tự do là khát vọng cháy bỏng của mỗi người dân Việt Nam; yêu cầu đặt ra cần một ngọn cờ lãnh đạo, một tổ chức đủ sức mạnh và uy tín để tập hợp toàn dân, đánh thức tinh thần quật cường, dẫn dắt cuộc đấu tranh giành lại độc lập, chủ quyền của quốc gia, tự do của người dân.
Trước khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, các phong trào yêu nước tiêu biểu như phong trào Duy Tân của Phan Chu Trinh và phong trào Đông Du của Phan Bội Châu hay các tổ chức chính trị như Việt Nam Quang phục hội (năm 1912) và Việt Nam quốc dân Đảng (tháng 12-1927)... đã hình thành. Mặc dù thể hiện tinh thần yêu nước và mang khuynh hướng tiến bộ nhất định, song các phong trào và đảng phái này đều thiếu một đường lối chính trị khoa học, đúng đắn để xác định con đường cứu nước phù hợp, phương pháp cách mạng hiệu quả, chưa nhận thức được vai trò lịch sử của giai cấp công nhân và không tập hợp được sức mạnh toàn dân.
Trước yêu cầu cấp bách, khách quan của thực tiễn Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt Nam được thành lập mùa Xuân năm 1930 là một bước ngoặt lịch sử trọng đại của cách mạng Việt Nam. Sự kiện này không chỉ chấm dứt tình trạng khủng hoảng về đường lối cứu nước kéo dài trong nhiều thập kỷ trước đó, mà còn đánh dấu sự thống nhất của các tổ chức cộng sản ở Việt Nam. Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam đã tạo ra một lực lượng chính trị tiên phong, có khả năng lãnh đạo và tập hợp sức mạnh toàn dân tộc để tiến hành cuộc cách mạng giải phóng dân tộc thành công, mở ra một kỷ nguyên mới cho lịch sử Việt Nam.
Ngay sau khi Đảng được thành lập, từ trong thực tiễn, dân tộc Việt Nam đã thừa nhận vai trò lãnh đạo của Đảng và Đảng ta đã lãnh đạo phong trào cách mạng Việt Nam giành thắng lợi trong cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Đảng tiếp tục lãnh đạo thắng lợi hai cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp (1945 - 1954) và đế quốc Mỹ (1954 - 1975), hoàn thành cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước.
Như vậy, từ thực tiễn, tính chính danh của Đảng được xác lập. Tính chính danh của Đảng Cộng sản Việt Nam còn được khẳng định chính từ sự hy sinh và gắn bó máu thịt với dân tộc, bởi trong suốt quá trình đấu tranh cách mạng do Đảng lãnh đạo, hàng triệu đảng viên, cán bộ, chiến sĩ và đồng bào đã hy sinh vì mục tiêu chính nghĩa: “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”. Từ những hy sinh to lớn đó, cùng với đường lối của Đảng luôn đặt lợi ích của dân tộc, lợi ích của nhân dân lên trên hết, trước hết, đã tạo nên sự đồng thuận, đồng lòng; tạo nên khối đại đoàn kết toàn dân tộc, khẳng định tính chính danh của Đảng trong vai trò lãnh đạo, cầm quyền. Đặc biệt, niềm tin của nhân dân đối với Đảng chính là thước đo của sự xác lập, khẳng định tính chính danh của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, non sông liền một dải, đất nước từ thời chiến chuyển sang thời bình, việc áp dụng máy móc, rập khuôn mô hình chủ nghĩa xã hội của Liên Xô, dẫn đến nền kinh tế - xã hội rơi vào khủng hoảng nghiêm trọng. Thực tiễn trên đặt ra yêu cầu liên quan đến vận mệnh của đất nước, của Đảng, đó là tất yếu phải đổi mới. Trên cơ sở nền tảng của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, trong thực tiễn vận dụng, phát triển sáng tạo, Đảng đã thể hiện rõ trí tuệ, bản lĩnh trong hoạch định đường lối cách mạng phù hợp với từng giai đoạn lịch sử cụ thể.
Với tinh thần “nhìn thẳng vào sự thật, nói rõ sự thật”, “Đại hội VI của Đảng (tháng 12-1986) đề ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước, bao gồm đổi mới tư duy, đổi mới tổ chức cán bộ, đổi mới phương pháp lãnh đạo và phong cách công tác. Đại hội đặc biệt nhấn mạnh phải đổi mới tư duy, trước hết là tư duy kinh tế; phải nắm vững quy luật khách quan, lấy dân làm gốc… Đại hội đánh dấu một bước ngoặt có ý nghĩa cách mạng trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, tạo ra bước đột phá lớn toàn diện, đem lại luồng sinh khí mới trong xã hội, làm xoay chuyển tình hình, đưa đất nước tiến lên”(1). Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng (năm 1991) đã thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, trong đó đề cập đến 4 nội dung lớn, gồm: Quá trình cách mạng và những bài học kinh nghiệm; quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta; những định hướng lớn về chính sách kinh tế, xã hội, quốc phòng - an ninh, đối ngoại; hệ thống chính trị và vai trò lãnh đạo của Đảng. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) làm rõ hơn mục tiêu tổng quát, các đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa, phương hướng xây dựng chủ nghĩa xã hội…
Trải qua 40 năm Đảng lãnh đạo công cuộc đổi mới, “đất nước ta đã vượt qua mọi khó khăn, vươn tới những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Từ một nước nghèo nàn, bị chiến tranh tàn phá, bị bao vây, cô lập, đến nay, Việt Nam đã trở thành nước đang phát triển, có thu nhập trung bình, hội nhập sâu, rộng vào nền chính trị thế giới, nền kinh tế toàn cầu, nền văn minh nhân loại, đảm nhiệm nhiều trọng trách quốc tế, phát huy vai trò tích cực tại nhiều tổ chức quốc tế, diễn đàn đa phương quan trọng. Độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ được giữ vững; lợi ích quốc gia, dân tộc được bảo đảm”(2). Những thành tựu to lớn về kinh tế, xã hội, văn hóa, quốc phòng, an ninh, đối ngoại mà Việt Nam đạt được trong 40 năm đổi mới do Đảng lãnh đạo là minh chứng sâu sắc, thuyết phục nhất về năng lực lãnh đạo và tính chính danh của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Dự thảo Văn kiện Đại hội XIV về tính chính danh của Đảng Cộng sản Việt Nam
Thực tiễn đang đặt ra yêu cầu khách quan, đó là khát vọng phát triển đất nước hùng cường, thịnh vượng, giữ vững độc lập, chủ quyền; phát triển kinh tế nhanh và bền vững; hướng đến mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh phải được hiện thực hóa bằng những mục tiêu cụ thể, trên tất cả các lĩnh vực. Bước vào kỷ nguyên mới, với những thành tựu đạt được sau 40 năm đổi mới, đất nước phải có những bước chuyển biến mạnh mẽ mang tính đột phá, gắn với tính chính danh của Đảng ta ngày càng được khẳng định.
Tính chính danh của Đảng thể hiện ở chủ đề của Đại hội:
Dự thảo Báo cáo chính trị tại Đại hội XIV của Đảng đã xác định chủ đề: “Dưới lá cờ vẻ vang của Đảng, chung sức, đồng lòng thực hiện thắng lợi các mục tiêu phát triển đất nước đến năm 2030; tự chủ chiến lược, tự cường, tự tin, tiến mạnh trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc vì hòa bình, độc lập, dân chủ, giàu mạnh, phồn vinh, văn minh, hạnh phúc, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội”(3).
“Dưới lá cờ vẻ vang của Đảng” vừa minh chứng tính đúng đắn của con đường mà Đảng lựa chọn, vừa khẳng định tính chính danh của Đảng, bằng uy tín được xây dựng từ lịch sử hào hùng. Trong bối cảnh mới, “Dưới lá cờ vẻ vang của Đảng” còn mang thông điệp về trách nhiệm cho tương lai, vừa gìn giữ sự “vẻ vang” của quá khứ đã tạo dựng bằng sự hy sinh của các thế hệ đi trước, vừa phát huy truyền thống đó ở hiện tại và tương lai; và với tính chính danh của mình, Đảng ta tự tin, tự chủ, tự cường dẫn dắt dân tộc Việt Nam vững vàng bước vào kỷ nguyên mới, “vì hòa bình, độc lập, dân chủ, giàu mạnh, phồn vinh, văn minh, hạnh phúc”.
Để bảo đảm tính chính danh, Đảng phải không ngừng tự đổi mới, tự chỉnh đốn. V.I. Lênin nhấn mạnh: “Một cuộc cách mạng chỉ có giá trị khi nó biết tự bảo vệ”(4). Soi rọi thực tiễn hôm nay, với những nguy cơ, thách thức đang tồn tại, chúng ta càng thấm giá trị lời căn dặn đó, Đảng phải “tự cách mạng” - đó là quy luật sống còn của Đảng, là “mệnh lệnh” của cuộc sống.
Tính chính danh của Đảng thể hiện tầm nhìn và khát vọng phát triển.
Dự thảo Văn kiện Đại hội XIV đề ra quyết tâm “… đưa đất nước ta trở thành nước đang phát triển có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao vào năm 2030; thiết thực kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng; hiện thực hoá tầm nhìn đến năm 2045 kỷ niệm 100 năm thành lập nước, trở thành nước phát triển, thu nhập cao theo định hướng xã hội chủ nghĩa, sánh vai với các cường quốc năm châu như tâm nguyện của Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu và ước vọng của toàn thể dân tộc ta”(5). Như vậy, khả năng hoạch định đường lối chiến lược đúng đắn và khả năng lãnh đạo tổ chức thực hiện thành công các mục tiêu trọng đại của đất nước đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 là thước đo trí tuệ, tầm nhìn và năng lực lãnh đạo của Đảng, đồng thời cũng là tiêu chí củng cố tính chính danh của Đảng trong kỷ nguyên mới gắn với xu thế toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế, cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, tăng trưởng xanh, phát triển bền vững và phù hợp với điều kiện thực tiễn của Việt Nam.
Đường lối lãnh đạo đúng đắn của Đảng cần quán triệt quan điểm “dân là gốc”, “dân làm gốc”, giải quyết được những vấn đề mà người dân quan tâm nhất, qua đó củng cố niềm tin sắt son, quy tụ sự chung sức, đồng lòng của nhân dân. Tính chính danh bền vững nhất là tính chính danh xuất phát từ niềm tin của nhân dân.
Quan điểm chỉ đạo trong Dự thảo Báo cáo chính trị Đại hội XIV của Đảng chỉ rõ, để phát triển nhanh và bền vững đất nước, cần triển khai đồng bộ các nhiệm vụ trọng tâm, đó là “Phát triển kinh tế, xã hội và bảo vệ môi trường là trung tâm; xây dựng Đảng là then chốt; phát triển văn hóa, con người là nền tảng; tăng cường quốc phòng, an ninh và đẩy mạnh đối ngoại, hội nhập quốc tế là trọng yếu, thường xuyên”(6). Tất cả các yếu tố này phải được thực hiện đồng bộ, chặt chẽ, không thể xem nhẹ bất kỳ yếu tố nào, hướng tới mục tiêu cuối cùng là xây dựng quốc gia hùng cường và thịnh vượng. Thông qua khả năng hoạch định đường lối chiến lược đúng đắn để hiện thực hóa khát vọng hùng cường của dân tộc, tính chính danh của Đảng được tiếp tục khẳng định và phát huy trong giai đoạn mới.
Tính chính danh của Đảng thể hiện ở quyết tâm chính trị.
Quyết tâm chính trị cao nhất của Đảng là vì hạnh phúc nhân dân. Uy tín của Đảng, tính chính danh của Đảng cũng đo bằng sự hùng cường, thịnh vượng của quốc gia và sự ấm no, hạnh phúc của nhân dân. Đó là minh chứng sống động, là niềm tin yêu mà nhân dân dành cho Đảng. Điều này đòi hỏi năng lực hoạch định (trí tuệ), năng lực tổ chức thực hiện (hành động). Năng lực này thể hiện ở việc xây dựng một Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong sạch, vững mạnh, hiệu lực, hiệu quả; đòi hỏi phải có đội ngũ cán bộ, đảng viên “vừa hồng, vừa chuyên”, đủ năng lực, phẩm chất gánh vác nhiệm vụ trong tình hình mới. Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và cuộc chiến chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực mang ý nghĩa sống còn. Tham nhũng và sự suy thoái của cán bộ là một trở lực lớn ngăn cản việc “hiện thực hóa” đường lối của Đảng và trực tiếp đe dọa đến tính chính danh của Đảng.
Nội dung xây dựng Đảng về “đạo đức” và “văn minh” cũng là một trong những điểm mới quan trọng được đưa vào Dự thảo Văn kiện Đại hội XIV của Đảng. Đảng Cộng sản Việt Nam là đảng cầm quyền, lãnh đạo Nhà nước và xã hội được hiến định trong Hiến pháp. Là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội, Đảng phải thật sự “là đạo đức, là văn minh”(7), đòi hỏi cán bộ, đảng viên phải phấn đấu thật sự vì dân, thể hiện vai trò, tiên phong gương mẫu, nêu gương về đạo đức. Trong thực thi nhiệm vụ phải luôn đặt lợi ích của nhân dân, của dân tộc, đất nước lên trên hết, trước hết. Dự thảo Văn kiện Đại hội XIV là bước tiến mới trong việc nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng - yếu tố then chốt để giữ vững tính chính danh.
Trước những yêu cầu to lớn từ nhiệm vụ của lịch sử, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn ý thức sâu sắc trách nhiệm không ngừng củng cố và khẳng định mạnh mẽ tính chính danh. Điều này đòi hỏi Đảng phải không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền và sức chiến đấu bắt đầu từ quyết tâm, trách nhiệm, tâm huyết của mỗi đảng viên, cán bộ, thực sự đáp ứng được mong mỏi của nhân dân và khát vọng phát triển đất nước./.
--------------------
(1) Ban Chấp hành Trung ương, Ban Chỉ đạo tổng kết: Báo cáo tổng kết một số vấn đề lý luận - thực tiễn qua 30 năm đổi mới (1986 - 2016), Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2015, tr. 41 - 42
(2) GS, TS Tô Lâm: Rạng rỡ Việt Nam, Tạp chí Cộng sản điện tử, ngày 2-2- 2025, https://tapchicongsan.org.vn/web/guest/media-story/-/asset_publisher/V8hhp4dK31Gf/content/rang-ro-viet-nam
(3) Xem: Công bố dự thảo các văn kiện Đại hội XIV để lấy ý kiến nhân dân, Tạp chí Cộng sản điện tử, https://tapchicongsan.org.vn/web/guest/du-thao-cac-van-kien-trinh-dai-hoi-xiv/-/2018/1152003/cong-bo-du-thao-cac-van-kien-dai-hoi-xiv-de-lay-y-kien-nhan-dan.aspx
(4) V.I. Lênin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Mátcơva, 1977, t. 37, tr. 145
(5) Xem: Công bố dự thảo các văn kiện Đại hội XIV để lấy ý kiến nhân dân, Tạp chí Cộng sản điện tử, https://tapchicongsan.org.vn/web/guest/du-thao-cac-van-kien-trinh-dai-hoi-xiv/-/2018/1152003/cong-bo-du-thao-cac-van-kien-dai-hoi-xiv-de-lay-y-kien-nhan-dan.aspx
(6) Xem: Công bố dự thảo các văn kiện Đại hội XIV để lấy ý kiến nhân dân, Tạp chí Cộng sản điện tử, https://tapchicongsan.org.vn/web/guest/du-thao-cac-van-kien-trinh-dai-hoi-xiv/-/2018/1152003/cong-bo-du-thao-cac-van-kien-dai-hoi-xiv-de-lay-y-kien-nhan-dan.aspx
(7) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 12, tr. 403
Ba đột phá chiến lược trong mô hình tăng trưởng mới của Việt Nam  (30/11/2025)
Ba đột phá chiến lược trong mô hình tăng trưởng mới của Việt Nam  (30/11/2025)
- Về tính chính danh của Đảng Cộng sản Việt Nam trong Dự thảo các văn kiện Đại hội XIV
- Chủ nghĩa thực dân số trong thời đại số và những vấn đề đặt ra
- Phương hướng, giải pháp nâng cao chất lượng công tác dân vận của Quân đội nhân dân Việt Nam, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn mới
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển đội ngũ nhà giáo và sự vận dụng của Đảng trong giai đoạn hiện nay
- Ngành y tế với công tác chăm sóc, bảo vệ và phát huy vai trò người cao tuổi trong giai đoạn hiện nay
-
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Cuộc chiến đấu bảo vệ Thành cổ Quảng Trị năm 1972 - khát vọng độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - Bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển -
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Chiến thắng Điện Biên Phủ - Bài học lịch sử và ý nghĩa đối với sự nghiệp đổi mới hiện nay -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Đổi mới tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị “tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả” theo tinh thần định hướng của Đồng chí GS, TS, Tổng Bí thư Tô Lâm