Vừa qua, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) đã tiến hành một cuộc điều tra, đánh giá tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp trong 6 tháng đầu năm 2008 - khoảng thời gian nền kinh tế nước ta gặp nhiều khó khăn. 282 doanh nghiệp trên cả nước đã tham gia vào cuộc điều tra này, trong đó, có 58,9%; doanh nghiệp thuộc khu vực dân doanh; 31,9% doanh nghiệp nhà nước; và 9,2% doanh nghiệp thuộc khu vực có vốn đầu tư nước ngoài. Qua Báo cáo của nhóm điều tra có thể thấy một số nét lớn trong hoạt động của các doanh nghiệp được hỏi trong 6 tháng đầu năm 2008 như sau.

1. Sự gia tăng về doanh thu không đồng nghĩa với sự gia tăng về hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp

Tình hình kinh doanh của các doanh nghiệp khá tốt so với năm 2007 thể hiện qua tốc độ tăng trưởng doanh thu trung bình của các doanh nghiệp trong 6 tháng đầu năm 2008 là 10,9%, so với mức 5,0% của năm 2007. Có 37,1% doanh nghiệp cho rằng, doanh thu của họ không thay đổi so với cùng kỳ năm 2007. Trong khi có tới 50,7% các doanh nghiệp khẳng định có doanh thu tốt hơn so với năm 2007, thậm chí 15,7% doanh nghiệp khẳng định là rất tốt. Tuy nhiên, đi sâu phân tích những con số này, có thể thấy: kết quả khả quan trên, một phần, do được thừa hưởng từ đà tăng trưởng của năm 2007; một số doanh nghiệp có doanh thu tăng, nhưng tốc độ thấp hơn những tháng đầu năm 2007, báo hiệu tiềm ẩn sự suy giảm tốc độ tăng trưởng của các doanh nghiệp; chỉ có khoảng ¼ số doanh nghiệp có lợi nhuận và mức tăng trưởng về lợi nhuận tốt hơn năm 2007, nghĩa là, sự gia tăng về doanh thu không đồng nghĩa với sự gia tăng về hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp.

2. Mức độ khó khăn, rủi ro của các doanh nghiệp thuộc các khu vực kinh tế khác nhau, không giống nhau

Hoạt động xuất khẩu các doanh nghiệp trong 6 tháng đầu năm 2008 có bị ảnh hưởng từ sự thay đổi của môi trường kinh doanh, tuy nhiên các doanh nghiệp lớn dường như ít bị ảnh hưởng hơn so với các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Khó khăn lớn nhất đối với doanh nghiệp xuất khẩu là sự gia tăng giá thành các chi phí đầu vào của sản xuất kinh doanh, tiếp theo là rủi ro về tỷ giá trong giao dịch. Ngoài ra, khó khăn do thiếu ngoại tệ để thanh toán, hay sức mua giảm tại các trường nhập khẩu do sự suy giảm của nền kinh tế thế giới cũng được một số doanh nghiệp đề cập đến, xong với tỷ lệ thấp.

Trong hoạt động xuất khẩu, các doanh nghiệp nhà nước (DNNN) đánh giá mức độ khó khăn trầm trọng hơn so với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài. Chẳng hạn, có tới 91,3% doanh nghiệp nhà nước cho rằng đang gặp khó khăn về “tăng giá thành các chi phí đầu vào”, trong khi tỷ lệ này ở các doanh nghiệp ngoài quốc doanh là 81,2% và 76,4% ở các doanh nghiệp FDI.

Tỷ lệ các doanh nghiệp FDI gặp những khó khăn khi xuất khẩu thấp nhất trong 3 loại hình doanh nghiệp. Đây là một điểm rất đáng lưu ý, vì năm 2007 các doanh nghiệp có FDI chiếm tới 57% tổng kim ngạch xuất khẩu và các doanh nghiệp này có thể vẫn duy trì được tốc độ này trong năm 2008.

3. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ khó tiếp cận nguồn vốn hơn các doanh nghiệp có quy mô lớn

Đa số các doanh nghiệp cho rằng, nhu cầu vay vốn của mình không được đáp ứng: 26,1% doanh nghiệp được hỏi đã thoả mãn được 3/4 nhu cầu vay vốn của mình và 33,5% doanh nghiệp đạt được một nửa nhu cầu vay vốn; số doanh nghiệp chỉ vay được 1/4 số vốn theo nhu cầu của mình: 29,8%...

Lãi suất cho vay của các ngân hàng thương mại tăng cao đến 21%/năm, khiến 73,2% các doanh nghiệp thường xuyên phàn nàn, trong đó, các doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) phải đối mặt nhiều hơn với những khó khăn này so với các doanh nghiệp lớn. Có 73,8% DNNVV gặp khó khăn khi lãi suất vay cao; 29,6% thiếu tài sản thế chấp; 23,7% bị vướng mắc về thủ tục hành chính và 19,1% gặp khó khăn về lập phương án kinh doanh. Trong khi tỷ lệ này ở các doanh nghiệp lớn tương ứng là 70,1% - 26,5% - 21,1% - 11,3%. Ngoài ra, các doanh nghiệp trong nước còn có một số khó khăn khác liên quan đến “Thiếu tài sản thế chấp” và “Phương án lập kế hoạch kinh doanh” - điều mà các doanh nghiệp có FDI rất ít đề cập tới.

Ngân hàng vẫn là kênh huy động vốn chủ yếu của các doanh nghiệp. Trong số những doanh nghiệp có nhu cầu vay vốn, có tới 74,47% các doanh nghiệp xem ngân hàng như là kênh huy động vốn chủ yếu của mình. Kênh tiếp theo là các quỹ đầu tư với 14,89%. Thị trường chứng khoán vẫn chưa được coi là kênh huy động vốn quan trọng của các doanh nghiệp, chỉ có 4,26% doanh nghiệp lựa chọn kênh này. Do dựa nhiều vào nguồn vốn từ ngân hàng nên khi lãi suất cao các doanh nghiệp đã lúng túng trong việc tìm huy động vốn từ các nguồn khác.

4. Các doanh nghiệp có FDI lạc quan hơn về triển vọng phát triển của nền kinh tế Việt Nam

42,1% số doanh nghiệp cho rằng, kinh tế Việt Nam sẽ tiếp tục ổn định. Nhiều doanh nghiệp (30,6% doanh nghiệp) tỏ ra lạc quan hơn khi cho rằng nền kinh tế sẽ được cải thiện hơn trong những tháng cuối năm 2008 và những năm tới. Các doanh nghiệp có FDI được xem là lạc quan nhất về triển vọng tốt đẹp của nền kinh tế Việt Nam. Trên 82% các doanh nghiệp FDI đánh giá khả năng ổn định và tăng trưởng của nền kinh tế Việt Nam trong thời gian tới, trong khi có 65,4% doanh nghiệp ngoài quốc doanh và 71,8% doanh nghiệp nhà nước đồng tình với nhận xét này.

5. Tỷ lệ các DNNVV muốn thu hẹp hoặc giữ nguyên quy mô sản xuất kinh doanh cao hơn so với các doanh nghiệp lớn, trong khi không một doanh nghiệp FDI nào nghĩ đến vấn đề này

52,4% các doanh nghiệp lựa chọn giải pháp giữ nguyên quy mô sản xuất kinh doanh như hiện nay; 41,3% doanh nghiệp dự định mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh và chỉ có 6,3% doanh nghiệp muốn thu hẹp quy mô sản xuất kinh doanh.

Nhóm doanh nghiệp ngoài quốc doanh dẫn đầu về tỷ lệ các doanh nghiệp có ý định thu hẹp quy mô sản xuất, tuy nhiên con số này chỉ chiếm 7,5% trong tổng số doanh nghiệp ngoài quốc doanh, cao hơn một chút so với các doanh nghiệp nhà nước (5,9%). Đặc biệt, không một doanh nghiệp FDI nào trong diện được điều tra có kế hoạch thu hẹp quy mô sản xuất.

Nếu phân theo quy mô doanh nghiệp, tỷ lệ các DNNVV muốn thu hẹp hoặc giữ nguyên quy mô sản xuất kinh doanh cao hơn so với các doanh nghiệp lớn. Đa số các doanh nghiệp lớn vẫn có ý định mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh (51,1%).

Để phát triển sản xuất kinh doanh trong thời gian tới các doanh nghiệp cũng đã chuẩn bị những yếu tố phát triển, trong đó ưu tiên hàng đầu là nâng cao trình độ của cán bộ quản lý và phát triển thị trường (56% doanh nghiệp cũng hướng tới mở rộng thị trường kinh doanh); nâng cao trình độ tay nghề cho công nhân (49% doanh nghiệp); quảng bá thương hiệu của sản phẩm và doanh nghiệp, nghiên cứu phát triển sản phẩm mới./.