TCCS - Trong sự nghiệp bảo vệ, xây dựng và phát triển đất nước, việc khai thông và phát huy nguồn lực văn hóa luôn đóng vai trò quan trọng, nhất là khơi dậy, phát huy hệ giá trị văn hóa và chuẩn mực con người, trong đó việc chuyển hóa năng lượng tinh thần tích cực của con người cần được coi là một cơ chế đặc thù, góp phần quan trọng phát huy vai trò động lực và điều tiết của văn hóa, đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước.

1- Văn hóa là phần hồn cốt, sức mạnh nội sinh của dân tộc, hướng con người đến các giá trị chân - thiện - mỹ, bồi đắp dân khí, khơi dậy trong mỗi cá nhân tinh thần yêu nước, ý chí tự lực, tự cường, tinh thần đoàn kết, thúc đẩy khát vọng sáng tạo và vươn lên. Văn hóa ngày càng thấm sâu vào mọi mặt đời sống xã hội, có sự gắn kết chặt chẽ các lĩnh vực khác nhau và là động lực thúc đẩy sự phát triển bền vững, hướng tới một xã hội tốt đẹp và nhân văn. Trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta, chính văn hóa và sức mạnh tinh thần là động lực vô cùng quan trọng trong việc khơi dậy tinh thần đoàn kết, ý chí quyết tâm của toàn dân tộc, từ đó chuyển hóa thành sức mạnh vật chất giúp đất nước vượt qua biết bao nguy nan từ thiên tai, địch họa, dịch bệnh,… để phát triển không ngừng. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, động lực này thường ở dạng tiềm ẩn và đòi hỏi cần phải có cơ chế “kích hoạt” mới có thể tạo thành sức mạnh, nhất là ở những thời điểm có ý nghĩa trọng đại, có tính bước ngoặt của lịch sử dân tộc. Chính vì thế, hiện nay, trong bối cảnh mới với nhiều thời cơ nhưng cũng không ít thách thức đến từ toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế, sự bùng nổ của khoa học - công nghệ…, Đại hội XIII của Đảng xác định cần “khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc”(1). Để hiện thực hóa được yêu cầu đó, cần có các cơ chế phát huy hệ giá trị văn hóa của dân tộc, trong đó phải đặc biệt chú trọng cơ chế chuyển hóa các năng lượng tinh thần tích cực ở  mỗi cá nhân và ở phổ rộng toàn xã hội thành động lực văn hóa - tinh thần.

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng gặp mặt đại biểu người có uy tín, nhân sĩ trí thức, doanh nhân dân tộc thiểu số tiêu biểu toàn quốc (năm 2017) _Nguồn: vietnamplus.vn

Cơ chế chuyển hóa năng lượng tinh thần tích cực là cơ chế rất đặc thù của lĩnh vực văn hóa tinh thần, có khả năng phát huy cả vai trò động lực và vai trò điều tiết của văn hóa. Đặc điểm nổi bật và riêng có của văn hóa tinh thần là khơi dậy, đánh thức lương tri, nhân phẩm, giúp con người tự điều tiết chính bản thân, vượt lên trên sự vị kỷ để hành động một cách vị tha, hướng tới những mục đích tốt đẹp; từ đó khẳng định, tôn vinh và lan tỏa các giá trị cao quý của con người. Không thuần túy lấy lợi ích vật chất, tác động kinh tế hay sử dụng mệnh lệnh hành chính để làm động lực, cơ chế chuyển hóa các năng lượng tinh thần tích cực thông qua hoạt động tôn vinh, biểu dương, tuyên truyền, giáo dục về các biểu tượng văn hóa, các tấm gương người tốt, việc tốt để thúc đẩy tính năng động của ý thức con người, khơi thức những giá trị văn hóa - tinh thần tốt đẹp đang còn tiềm ẩn trong mỗi con người, khơi dậy tình yêu thương, lòng trắc ẩn và ý thức về trách nhiệm với cuộc sống để con người hành động một cách tự giác, tự nguyện, thậm chí hy sinh bản thân cho mục đích cao đẹp; qua đó, chuyển hóa giá trị văn hóa thành sức mạnh văn hóa, sức mạnh vật chất, thúc đẩy sự phát triển bền vững của đất nước.

Lịch sử dân tộc Việt Nam chứng minh, những con người “đặc biệt”, những “thủ lĩnh” tinh thần luôn có sức quy tụ lòng dân, có khả năng lan tỏa những giá trị văn hóa tốt đẹp trong cộng đồng, trở thành những biểu tượng văn hóa và giữ vai trò tạo động lực tinh thần to lớn trong việc khơi dậy sức mạnh của nhân dân, thúc đẩy khát vọng phát triển đất nước. Một số nhân vật khi trở thành biểu tượng văn hóa, do những công lao đặc biệt đối với quê hương, đất nước, đã được thiêng hóa, được tôn vinh thành thánh, ông tổ, bà tổ… Các di tích lịch sử ghi dấu ấn chiến công hiển hách của các anh hùng dân tộc, hệ thống các lễ hội mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc luôn là những nhân tố quan trọng góp phần tăng cường tính cố kết cộng đồng, tinh thần “uống nước nhớ nguồn”, là động lực tinh thần để người dân phát huy sức sáng tạo, thể hiện vai trò chủ thể, phát huy tính chủ động trong quá trình chuyển hóa các năng lượng tinh thần tích cực, góp phần phát huy vai trò động lực và điều tiết của văn hóa.

Trong thời đại Hồ Chí Minh, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhân dân ta đã giành được chiến thắng trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, đồng thời đạt được nhiều thành tựu có ý nghĩa lịch sử trong sự nghiệp đổi mới đất nước. Những thắng lợi vẻ vang đó có nguyên nhân sâu xa từ động lực văn hóa tinh thần lớn lao của toàn dân tộc, mà trước hết là niềm tin, sự tự giác, tự nguyện một lòng đoàn kết, quyết tâm của nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại. Đảng Cộng sản Việt Nam, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, đã đề ra đường lối lãnh đạo đất nước đúng đắn, phù hợp với quy luật khách quan, kết tinh những giá trị văn hóa dân tộc, đáp ứng được ý chí, nguyện vọng, lợi ích của nhân dân, của dân tộc nên đã khơi dậy, “kích hoạt” sức mạnh tinh thần đại đoàn kết toàn dân tộc và chuyển hóa thành sức mạnh vật chất to lớn trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Ngày nay, trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, tư tưởng Hồ Chí Minh mãi là kim chỉ nam soi đường cho toàn Đảng và toàn dân tộc ta tiến bước tới tương lai. Tư tưởng, đạo đức, phong cách của Người là biểu tượng mẫu mực cho văn hóa Việt Nam. “Yêu Bác lòng ta trong sáng hơn”. Từ việc học tập và làm theo tấm gương của Bác - Danh nhân văn hóa thế giới, người tiêu biểu cho tâm hồn, trí tuệ, bản lĩnh dân tộc, mà tinh thần yêu nước, lòng tự hào, tự tôn dân tộc, ý thức trách nhiệm với Tổ quốc, với cuộc sống, danh dự, nhân phẩm của mỗi người dân Việt Nam không ngừng được bồi đắp để vươn tới những giá trị cao đẹp.

Thời gian qua, cùng với việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, công tác giáo dục các giá trị văn hóa tốt đẹp của dân tộc được triển khai hiệu quả với nhiều nội dung và hình thức đa dạng, phong phú, qua đó, truyền thống yêu nước, tương thân tương ái cùng những giá trị văn hóa tốt đẹp của dân tộc không ngừng được tiếp nối với việc nhân lên ngày càng nhiều mô hình hay, nhiều tấm gương người tốt, việc tốt trên khắp cả nước. Trong thực tiễn cuộc chiến chống đại dịch COVID-19 ở nước ta hiện nay, những mô hình “ATM gạo”, “ATM khẩu trang”, “ATM cơm”, “siêu thị không đồng” được sáng tạo để hỗ trợ những người dân có hoàn cảnh khó khăn; đồng bào ta trong và ngoài nước đã và đang có nhiều việc làm tình nghĩa, tiếp sức cả nguồn lực vật chất lẫn tinh thần cho người dân các địa phương trong tâm dịch… Tất cả những hoạt động ý nghĩa đó có sức lay động lòng người mạnh mẽ, góp phần lan tỏa sâu rộng trong xã hội những giá trị văn hóa cao đẹp của dân tộc, đồng thời một lần nữa khẳng định, sức mạnh tinh thần của văn hóa Việt Nam đã được khơi dậy và chuyển hóa thành sức mạnh vật chất đưa đất nước vượt qua những khó khăn, thử thách.

Hà Nội triển khai mô hình ATM phát khẩu trang miễn phí cho người dân_Ảnh: TTXVN

2- Không chỉ có vai trò động lực thúc đẩy sự phát triển, văn hóa còn có chức năng điều tiết sự phát triển bằng cách “lấy cái đẹp dẹp cái xấu”, nhân lên các chuẩn mực và giá trị văn hóa, ngăn chặn, đẩy lùi những hiện tượng phản văn hóa, bảo đảm cho xã hội vận động và phát triển lành mạnh, ổn định.

Tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc (tháng 11-1946), Chủ tịch Hồ Chí Minh đưa ra luận điểm “Văn hóa soi đường cho quốc dân đi”. Luận điểm này đã trở thành nguyên tắc chi phối, có ý nghĩa cơ bản, lâu dài, là “sợi chỉ đỏ” xuyên suốt sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đồng thời khẳng định ý nghĩa, vị trí, vai trò của văn hóa đối với sự phát triển xã hội, trong đó có vai trò điều tiết, giúp xã hội, con người đi đúng hướng, phù hợp với các chuẩn mực và giá trị văn hóa.

Bản chất của chức năng điều tiết xuất phát từ chức năng giáo dục của văn hóa. Yếu tố hạt nhân bảo đảm điều tiết sự phát triển chính là hệ giá trị văn hóa, được cụ thể hóa thành chuẩn mực (những yêu cầu, quy tắc mà qua đó xã hội định hướng hành vi của các thành viên), biểu tượng, nghi thức thực hành văn hóa…, giúp hạn chế, loại bỏ những yếu tố phản văn hóa, để không ngừng hoàn thiện và hướng tới các giá trị chân - thiện - mỹ.

Cơ chế chuyển hóa các năng lượng tinh thần tích cực thông qua nhiều hình thức khác nhau, như nêu gương và noi gương, tu dưỡng, rèn luyện, tôn vinh, biểu dương, tuyên truyền, giáo dục để điều tiết hài hòa giữa động lực vật chất và động lực tinh thần; điều hòa mối quan hệ giữa những lợi ích chính đáng, hợp pháp của mỗi cá nhân và lợi ích chung của tập thể, cộng đồng; kết hợp hợp lý giữa sử dụng động lực tinh thần để giải phóng các rào cản tư duy, nhận thức bảo thủ, lạc hậu và sử dụng lợi ích vật chất để kích thích động lực chính đáng.

Trong chính trị, vai trò điều tiết của văn hóa gắn liền với văn hóa trong Đảng, văn hóa lãnh đạo, quản lý, văn hóa công vụ, văn hóa của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức trong hệ thống chính trị... Khi các năng lượng tinh thần tích cực được giải phóng và phát huy cao độ thì sẽ có tác dụng điều chỉnh các hành vi, lối sống của những người lãnh đạo, quản lý, cán bộ, công chức, viên chức để định hình nên văn hóa công vụ. Trong chiến tranh, nhiều cán bộ, chiến sĩ sẵn sàng xả thân vì Tổ quốc, vì lý tưởng thiêng liêng, danh dự và tự do, song trong thời bình, có khi vẫn chính là con người ấy, đã không chiến thắng nổi “những viên đạn bọc đường”, những cám dỗ vật chất. Thực tế hiện nay đã có một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên có biểu hiện thiếu kiên định lý tưởng, suy thoái về đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, mất dân chủ trong lãnh đạo và quản lý, tham nhũng, lãng phí, gây bức xúc trong dư luận. Một trong những nguyên nhân của thực trạng trên là do văn hóa chính trị chưa thực sự được phát huy để trở thành yếu tố “điều tiết”, đẩy lùi những suy nghĩ, hành vi, lối sống phản đạo đức chính trị.

Do đó, trong bối cảnh thế giới và đời sống xã hội đang có nhiều biến động khó lường như hiện nay, mỗi cán bộ, đảng viên cần không ngừng nỗ lực rèn luyện, tự tiết chế bản thân, ứng xử, hành động theo những giá trị, chuẩn mực văn hóa để hoạt động chính trị thực sự đem lại hiệu quả, tạo dựng được lòng tin của nhân dân. Đặc biệt, với đội ngũ cán bộ lãnh đạo, nhất là cán bộ lãnh đạo cấp chiến lược, cần rèn luyện năng lực tự học, thực học và học tập suốt đời, trang bị nền tảng văn hóa xứng tầm để có khả năng điều tiết, sử dụng quyền lực một cách phù hợp.

Trong kinh tế, khi các năng lượng tinh thần tích cực được giải phóng, phát huy cao độ, sẽ có tác dụng điều chỉnh các hành vi, lối sống, thúc đẩy liêm chính kinh doanh, văn hóa doanh nghiệp, văn hóa doanh nhân,… để các doanh nghiệp vừa hướng tới mục tiêu lợi ích kinh tế vừa thực hiện trách nhiệm xã hội, góp phần xây dựng môi trường cạnh tranh lành mạnh, ứng xử có văn hóa với người lao động, với cộng đồng, với môi trường, góp phần định hình nên văn hóa kinh doanh, tiêu dùng. Thực tế hiện nay, nhiều doanh nghiệp xã hội hoạt động trên các lĩnh vực văn hóa, giáo dục, đào tạo, chăm sóc sức khỏe, thủ công mỹ nghệ, truyền thông cộng đồng, nông nghiệp, bảo vệ môi trường... đã mang lại nhiều lợi ích cho cộng đồng, góp phần lan tỏa sâu rộng xu hướng tiêu dùng văn minh - “tiêu dùng tạo giá trị xã hội” (BuySocial), khơi dậy trách nhiệm xã hội của mỗi cá nhân (nhất là của giới trẻ), thúc đẩy các hoạt động có ý nghĩa trong cộng đồng. Song, bên cạnh đó, một số doanh nghiệp vì chạy theo lợi nhuận bằng mọi giá nên đã sản xuất, kinh doanh kiểu chụp giật, cạnh tranh không lành mạnh, sản xuất hàng hóa kém chất lượng, vi phạm pháp luật, vi phạm bản quyền, vi phạm các quy định về bảo vệ môi trường… Thực tế đó đòi hỏi cần nâng cao vai trò và hiệu quả điều tiết của văn hóa doanh nghiệp, văn hóa doanh nhân.

Trong các lĩnh vực giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, y tế, môi trường..., những lĩnh vực gắn liền với đời sống vật chất và tinh thần của con người, thì sự điều tiết của văn hóa thể hiện ở việc bồi đắp đạo đức người thầy, đạo đức của nhà khoa học, đạo đức của đội ngũ y, bác sĩ, ở những ứng xử văn hóa trong môi trường học đường, viện nghiên cứu, ứng xử với những phát minh, sáng chế, ứng xử với môi trường, với thông tin trong thế giới thực và thế giới ảo (mạng internet)… Cơ chế chuyển hóa các năng lượng tinh thần tích cực thông qua hoạt động động viên, tôn vinh, lan tỏa kịp thời những hành vi, giá trị văn hóa tốt đẹp, góp phần đẩy lùi những cái xấu, cái ác, tầm thường; đồng thời nuôi dưỡng, thúc đẩy những điều tốt đẹp ngày càng nảy nở, phát triển trong xã hội. Ví dụ như trong cuộc chiến chống đại dịch COVID-19 ở nước ta, sự hy sinh thầm lặng của biết bao y, bác sĩ, chiến sĩ khi vượt qua những nỗi niềm riêng, sẵn sàng chấp nhận sự hiểm nguy đối với sức khỏe, thậm chí đối diện với sự đe dọa tính mạng để xông pha vào tuyến đầu chống dịch, cũng như biết bao hành động tử tế của người dân trên khắp đất nước sẵn sàng nhường cơm, sẻ áo, trợ giúp người khó khăn… đã gây xúc động và lay động lòng người; không cho phép tồn tại những sự thờ ơ, dửng dưng hay vị kỷ; đánh thức lương tri, tinh thần tương thân tương ái, thôi thúc mạnh mẽ trách nhiệm công dân, để mỗi người tự giác, tự nguyện cùng góp một phần sức lực vật chất và tinh thần chung tay với cộng đồng quyết tâm chiến thắng đại dịch.

Tiếp sức mạnh tinh thần cho đoàn đoàn y, bác sĩ Bệnh viện C Đà Nẵng lên đường chi viện cho tỉnh Bắc Giang chống dịch COVID-19_Ảnh: TTXVN

3- Để thiết lập được cơ chế chuyển hóa hiệu quả năng lượng tinh thần tích cực đóng góp quan trọng trong phát huy vai trò động lực và điều tiết của văn hóa đối với sự phát triển của đất nước, cần thực hiện đồng bộ một số giải pháp:

Thứ nhất, nâng cao chất lượng và đa dạng hóa các hoạt động tuyên truyền, giáo dục tư tưởng, truyền thống, hệ giá trị văn hóa dân tộc nhằm khơi dậy những giá trị chân - thiện - mỹ trong mỗi cá nhân, hướng mọi người hành động một cách đúng đắn theo các chuẩn mực và giá trị văn hóa. Kết hợp hài hòa giữa “xây” và “chống”, trong đó lấy “xây” làm chính, vừa bảo vệ và phát huy các giá trị tốt đẹp bền vững trong truyền thống văn hóa Việt Nam, vừa từng bước khắc phục những điểm còn hạn chế trong con người Việt Nam. Kết hợp hiệu quả giữa giáo dục gia đình, nhà trường và xã hội, từ đó xây dựng con người Việt Nam trong thời đại mới có sự gắn kết chặt chẽ, hài hòa giữa giá trị truyền thống tốt đẹp và giá trị hiện đại, văn minh, như lòng yêu nước, ý thức tự hào, tự tôn dân tộc, bản lĩnh, trách nhiệm, tinh thần thượng tôn pháp luật, sự sáng tạo, ý thức tự học, thực học và học tập suốt đời, khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc. Đồng thời, đấu tranh, ngăn ngừa kịp thời các hoạt động phá hoại của các thế lực thù địch; phòng, chống “diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực văn hóa - tư tưởng, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng và các giá trị văn hóa tốt đẹp của dân tộc.

Hai là, phát huy vai trò tiên phong, gương mẫu của các cán bộ, đảng viên, đặc biệt là người đứng đầu, gắn với đẩy mạnh việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Mỗi người cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ cấp chiến lược, cần có tinh thần, ý thức nêu gương và noi gương, thường xuyên rèn luyện, trau dồi phẩm chất, đạo đức cách mạng, văn hóa chính trị; thực hiện cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; không ngừng học tập từ đồng nghiệp và nhân dân những điều hay, lẽ phải, thực sự trở thành những tấm gương để mọi người noi theo, từ đó tạo dựng được uy tín và khả năng thu phục lòng dân, củng cố niềm tin của nhân dân, qua đó, góp phần xây dựng Đảng ngày càng trong sạch, vững mạnh.

Ba là, tiếp tục đẩy mạnh hoạt động tôn vinh, khen thưởng theo hướng đi vào thực chất, thông tin kịp thời những tấm gương “người tốt, việc tốt”, tích cực xây dựng và nhân rộng các mô hình hiệu quả có giá trị như những biểu tượng văn hóa (có thể là cá nhân hoặc tập thể, là nông dân, công nhân, trí thức, doanh nhân, đặc biệt là thế hệ trẻ...) để tạo sức lan tỏa, tạo thành các phong trào thi đua tích cực trong xã hội; khơi dậy trong mỗi con người lương tâm, ý thức trách nhiệm với cộng đồng, với chính bản thân mình và từ đó điều chỉnh hành vi, lối sống, ứng xử một cách văn hóa.

Phát huy động lực tinh thần to lớn của các tín ngưỡng dân gian trong việc nâng cao chất lượng đời sống văn hóa tinh thần của nhân dân (Trong ảnh: Hội vật truyền thống vùng Kinh Bắc tại xã Đình Bảng, huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh)_Ảnh: S.T

Bốn là, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về văn hóa. Tăng cường công tác kiểm kê, đánh giá, bảo tồn các giá trị di sản văn hóa (vật thể và phi vật thể), công tác quản lý lễ hội..., để phát huy vai trò chủ thể sáng tạo của nhân dân và động lực tinh thần to lớn của các tín ngưỡng dân gian trong việc nâng cao chất lượng đời sống văn hóa tinh thần của nhân dân, khơi dậy lòng yêu nước, tình yêu thương con người và những giá trị cao đẹp. Xử lý nghiêm, kịp thời những trường hợp lợi dụng lễ hội, tôn giáo, tín ngưỡng để hoạt động mê tín, dị đoan, kích động, gây chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Kết hợp giữa kế thừa giá trị văn hóa truyền thống với tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại trong việc sáng tạo và phổ biến những sản phẩm, dịch vụ văn hóa phong phú, đa dạng, đáp ứng nhu cầu văn hóa tinh thần ngày càng cao của nhân dân. Tăng cường đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực trong lĩnh vực văn hóa. Xây dựng cơ chế lựa chọn, sử dụng cán bộ văn hóa một cách công khai, minh bạch. Tiếp tục tôn vinh những văn nghệ sĩ, những nghệ nhân dân gian có nhiều đóng góp cho sự phát triển văn hóa dân tộc. Thực hiện chính sách đãi ngộ các nghệ sĩ, nghệ nhân tiêu biểu có công bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp; khuyến khích đội ngũ văn nghệ sĩ trong và ngoài nước phát huy tài năng, tâm huyết để sáng tạo những tác phẩm phản ánh sâu sắc hiện thực đất nước với những hình tượng tiêu biểu của chủ nghĩa yêu nước, chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam thời đại mới, lấy cái tốt, cái thiện đẩy lùi cái xấu, cái ác, lấy nhân tố tích cực đẩy lùi những tiêu cực đang làm xói mòn những giá trị văn hóa cao đẹp của dân tộc; từ đó góp phần xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh và đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước./.

----------------------------

(1) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. I, tr. 34