Quan điểm của Đảng về phát huy nguồn lực văn hóa

PGS, TS. PHẠM DUY ĐỨC
Nguyên Viện trưởng Viện Văn hóa và phát triển, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
21:31, ngày 21-05-2021

TCCS - Nền văn hóa Việt Nam được vun đắp qua hàng ngàn năm lịch sử đã trở thành điểm tựa tinh thần vững chắc, là nguồn lực to lớn tạo nên những thắng lợi vĩ đại trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta. Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế hiện nay, kế thừa và phát huy sức mạnh của văn hóa dân tộc, Đảng ta đã xác định quan điểm, đường lối và chính sách khoa học, phù hợp với thực tiễn để phát huy nguồn lực văn hóa, góp phần thúc đẩy đất nước phát triển nhanh và bền vững.

Nền văn hóa Việt Nam được vun đắp qua hàng ngàn năm lịch sử đã trở thành điểm tựa tinh thần vững chắc, là nguồn lực to lớn (Trong ảnh: Chơi kéo co cổ truyền trong ngày hội truyền thống)_Ảnh: TTXVN

Nguồn lực văn hóa là nguồn lực được kết tinh trong các giá trị văn hóa của một dân tộc, một cộng đồng, được biểu hiện thông qua các giá trị văn hóa vật thể, giá trị văn hóa phi vật thể và trong các hoạt động văn hóa của con người - chủ thể sáng tạo văn hóa. Nguồn lực văn hóa có thể tồn tại dưới dạng hữu hình (như hệ thống di sản văn hóa, các tài sản văn hóa vật thể), hoặc tồn tại dưới dạng vô hình (thể hiện ở giá trị truyền thống, phong tục, tập quán, lối sống của xã hội).

Ngay sau khi nước nhà giành được độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nhấn mạnh, “văn hóa phải soi đường cho quốc dân đi”. Người chỉ rất rõ mối quan hệ giữa văn hóa, kinh tế và chính trị: “Văn hóa, nghệ thuật cũng như mọi hoạt động khác, không thể đứng ngoài, mà phải ở trong kinh tế và chính trị”(1) .

Trong thời kỳ đổi mới, tiến hành phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, Đảng ta đã từng bước nhận thức toàn diện và sâu sắc hơn về vai trò của văn hóa và việc phát huy nguồn lực văn hóa đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng (năm 1991) đã xác định Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000, trong đó chỉ ra các lợi thế và nguồn lực phát triển, trước tiên là nguồn nhân lực và con người Việt Nam. Nguồn lao động dồi dào, con người Việt Nam có truyền thống yêu nước, cần cù, sáng tạo, có nền tảng văn hóa, giáo dục, có khả năng nắm bắt nhanh khoa học và công nghệ... là nguồn lực quan trọng nhất.

Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa VIII (năm 1998) về “Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc” có ý nghĩa chiến lược về phát triển văn hóa Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Văn kiện Hội nghị Trung ương 5 khóa VIII xác định mối quan hệ biện chứng giữa văn hóa và kinh tế: “Hai vấn đề về văn hóa và kinh tế - xã hội gắn chặt nhau, vừa là những vấn đề cơ bản lâu dài, vừa cấp bách trước mắt. Nếu nhận thức đúng và giải quyết tốt sẽ thúc đẩy đất nước vượt qua khó khăn, phát triển mạnh mẽ bền vững; nhưng nếu nhận thức không đúng, giải quyết không tốt thì tình hình sẽ trở nên phức tạp hơn nhiều”(2). Khẳng định vai trò của văn hóa trong phát triển đất nước, Nghị quyết đã nêu rõ: “Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội”(3) và nhấn mạnh: “Văn hóa là kết quả của kinh tế đồng thời là động lực của sự phát triển kinh tế. Các nhân tố văn hóa phải gắn kết chặt chẽ với đời sống và hoạt động xã hội trên mọi phương diện chính trị, kinh tế - xã hội, pháp luật, kỷ cương... biến thành nguồn lực nội sinh quan trọng nhất của phát triển”(4). Nghị quyết cũng nhấn mạnh vai trò nhân tố con người và văn hóa, đó là góp phần quan trọng gia tăng sự cố kết cộng đồng, tạo nên sự thống nhất và đồng thuận xã hội, hướng đến cái đúng, cái tốt, cái đẹp để tạo lập nền tảng tinh thần vững chắc cho xã hội, đồng thời là động lực, là nguồn lực thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển.

Để cụ thể hóa việc phát huy nguồn lực văn hóa cho phát triển, Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa VIII đã nhấn mạnh đến giải pháp xây dựng, ban hành luật pháp và các chính sách văn hóa. Trong đó, Nghị quyết đề cập đến chính sách kinh tế trong văn hóa chính sách văn hóa trong kinh tế. Chính sách kinh tế trong văn hóa nhằm gắn văn hóa với các hoạt động kinh tế, khai thác tiềm năng kinh tế, tài chính hỗ trợ cho phát triển văn hóa; đồng thời, bảo đảm yêu cầu chính trị, tư tưởng của hoạt động văn hóa, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc. Thực hiện cơ chế mở rộng hoạt động kinh doanh dịch vụ (hoạt động thể thao, dịch vụ văn hóa,…); cải tiến chế độ tài trợ, đặt hàng; quy định cụ thể cơ chế để thu hút doanh nghiệp đầu tư, phát triển văn hóa; cho phép các thành phần kinh tế, kể cả tư nhân trong và ngoài nước, thực hiện các hình thức liên doanh, liên kết để xây dựng kết cấu hạ tầng, đổi mới công nghệ, tham gia phát triển văn hóa... Chính sách văn hóa trong kinh tế bảo đảm văn hóa thể hiện rõ trong các hoạt động kinh tế, đồng thời thúc đẩy các hoạt động kinh tế hỗ trợ nhiều hơn cho sự nghiệp phát triển văn hóa. Chính sách này nhấn mạnh đến việc gắn kết chặt chẽ giữa mục tiêu kinh tế và mục tiêu văn hóa, chăm lo cho con người, nêu cao đạo đức trong sản xuất, kinh doanh, xây dựng văn hóa kinh doanh, văn hóa doanh nghiệp; đồng thời chú ý tới tính thẩm mỹ, bản sắc dân tộc và tính hiện đại trong kiến trúc, quan tâm xây dựng các thiết chế văn hóa cần thiết, bảo đảm cảnh quan môi trường cho các di tích văn hóa và danh lam thắng cảnh; thực hiện chính sách miễn, giảm thuế cho các khoản đầu tư, đóng góp của doanh nghiệp vào sự nghiệp văn hóa. Có thể nói, những vấn đề mà Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa VIII nêu ra nhằm phát huy nguồn lực văn hóa, cho đến nay, vẫn giữ nguyên ý nghĩa; có những điều chúng ta chưa thực hiện được và cần phải thực hiện đồng bộ và quyết liệt hơn.

Vai trò nguồn lực văn hóa đối với phát triển đã được đúc kết trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011). Cương lĩnh khẳng định: “Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, phát triển toàn diện, thống nhất trong đa dạng, thấm nhuần tinh thần nhân văn, dân chủ, tiến bộ; làm cho văn hóa gắn kết chặt chẽ và thấm sâu vào toàn bộ đời sống xã hội, trở thành nền tảng tinh thần vững chắc, sức mạnh nội sinh quan trọng của phát triển”(5).

Hội nghị Trung ương 9 khóa XI (năm 2011) của Đảng đã tổng kết 15 năm thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa VIII và ban hành Nghị quyết số 33-NQ/TW, ngày 9-6-2014, về “Xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước”. Trong Nghị quyết này, Đảng ta nhấn mạnh đến nhiệm vụ xây dựng con người toàn diện đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước, đồng thời bổ sung các nhiệm vụ mới là xây dựng văn hóa trong chính trị và kinh tế; phát triển công nghiệp văn hóa đi đôi với xây dựng, hoàn thiện thị trường văn hóa. Những nhiệm vụ này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với việc phát huy nguồn lực văn hóa trong sự nghiệp xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị, phát triển kinh tế - xã hội.

Nguồn lực văn hóa chính là sức mạnh nội sinh thúc đẩy sự phát triển đất nước trên tất cả các lĩnh vực: chính trị, kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh và đối ngoại. Nhận thức mới có tính đột phá của Đảng về nguồn lực văn hóa đối với phát triển được thể hiện ở việc khẳng định vai trò của văn hóa trong chính trị và trong kinh tế. Chính trị và kinh tế là hai lĩnh vực then chốt của xã hội phải được đặt trên nền tảng văn hóa và phải phát huy vai trò của nguồn lực văn hóa đối với việc phát triển hai lĩnh vực trên. Đảng ta nhấn mạnh: “Văn hóa phải được đặt ngang hàng với kinh tế, chính trị, xã hội”(6). Đây chính là sự tiếp nối tư tưởng Hồ Chí Minh trong bối cảnh phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.

Nguồn lực văn hóa được kết tinh tập trung nhất là ở con người. Con người là trung tâm của chiến lược phát triển, đồng thời là chủ thể của phát triển. Tôn trọng và bảo vệ quyền con người, gắn quyền con người với quyền và lợi ích của dân tộc, đất nước và quyền làm chủ của nhân dân. Kết hợp và phát huy đầy đủ vai trò của xã hội, gia đình, nhà trường, từng tập thể lao động, các đoàn thể và cộng đồng dân cư trong việc chăm lo xây dựng con người Việt Nam giàu lòng yêu nước, có ý thức làm chủ, trách nhiệm công dân, có tri thức, sức khỏe, lao động giỏi; sống có văn hóa, nghĩa tình; có tinh thần quốc tế chân chính. Đây chính là cách tiếp cận tổng thể về văn hóa để nhìn rõ hơn sức mạnh và sự lan tỏa của văn hóa, của các giá trị chân - thiện - mỹ vào mọi hoạt động của đời sống xã hội, tạo nên sự phát triển hài hòa, bền vững của đất nước trong thời kỳ đổi mới.

Chăm lo xây dựng con người Việt Nam giàu lòng yêu nước, có ý thức làm chủ, trách nhiệm công dân, có tri thức, sức khỏe, lao động giỏi; sống có văn hóa, nghĩa tình; có tinh thần quốc tế chân chính_Ảnh: Tư liệu

“Chiến lược phát triển bền vững Việt Nam giai đoạn 2011 - 2020” (được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 432/QĐ-TTg, ngày 12-4-2012) cũng khẳng định quan điểm con người là trung tâm của phát triển bền vững; nhấn mạnh yêu cầu, nhiệm vụ phát huy tối đa nhân tố con người với vai trò là chủ thể, nguồn lực chủ yếu và là mục tiêu của phát triển bền vững; cần đáp ứng ngày càng đầy đủ hơn nhu cầu vật chất và tinh thần của mọi tầng lớp nhân dân…

Trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020, Đảng ta khẳng định một trong những quan điểm phát triển là mở rộng dân chủ, phát huy tối đa nhân tố con người; coi con người là chủ thể, nguồn lực chủ yếu và là mục tiêu của sự phát triển; phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao, tập trung vào việc đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục quốc dân; gắn kết chặt chẽ phát triển nguồn nhân lực với phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ. Đây là một trong ba khâu đột phá chiến lược để thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội. Văn kiện Đại hội XIII của Đảng đã bổ sung, cụ thể hóa các đột phá chiến lược này cho phù hợp với giai đoạn phát triển mới, trong đó nhấn mạnh: “Phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao, ưu tiên nguồn nhân lực cho công tác lãnh đạo, quản lý và các lĩnh vực then chốt trên cơ sở nâng cao, tạo bước chuyển biến căn bản, mạnh mẽ, toàn diện về chất lượng giáo dục, đào tạo gắn với cơ chế tuyển dụng, sử dụng, đãi ngộ người tài; đẩy mạnh nghiên cứu, chuyển giao, ứng dụng và phát triển khoa học - công nghệ; khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, ý chí phấn đấu vươn lên, phát huy giá trị văn hóa, sức mạnh con người Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”(7).

Nhận thức sâu sắc về vai trò, vị trí của nguồn lực văn hóa, nhất là nguồn lực con người trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội, đặc biệt trong bối cảnh mới không ít thách thức, nguy cơ với nhiều biến động bất ngờ, khó lường, Đảng ta nhấn mạnh định hướng phát triển đất nước giai đoạn mới cần “phát triển con người toàn diện và xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc để văn hóa, con người Việt Nam thực sự trở thành sức mạnh nội sinh, động lực phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc”, bởi “tài năng, trí tuệ, phẩm chất của con người Việt Nam là trung tâm, mục tiêu và động lực phát triển quan trọng nhất của đất nước”(8).

Như vậy, có thể thấy, nhận thức về nguồn lực văn hóa trong chiến lược xây dựng và phát triển đất nước của Đảng ta ngày càng toàn diện và sâu sắc hơn. Đây là chủ trương, đường lối hoàn toàn đúng đắn, là cơ sở quan trọng để Nhà nước thể chế hóa, đồng thời lãnh đạo, chỉ đạo hiệu quả, phù hợp với bối cảnh mới để khai thông nguồn lực văn hóa và phát huy các giá trị văn hóa Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước./.

----------------------

(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 7, tr. 246
(2), (3) Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, tr. 17, 55
(4) Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII, Sđd, tr.55, tác giả in nghiêng để nhấn mạnh
(5) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr. 75 - 76, tác giả in nghiêng để nhấn mạnh
(6) Văn kiện Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương khóa XI, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2014, tr. 48
(7), (8) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. I, tr. 54, 115 - 116