Cơ chế hợp tác nhóm: Thực tiễn quốc tế và hàm ý chính sách đối với Việt Nam

TS. VŨ LÊ THÁI HOÀNG - TS. LÊ TRUNG KIÊN
Bộ Ngoại giao - Viện Nghiên cứu chiến lược ngoại giao, Học viện Ngoại giao, Bộ Ngoại giao
00:59, ngày 03-02-2022

TCCS - Trong bối cảnh cạnh tranh nước lớn gia tăng, các thách thức an ninh, phát triển ngày càng phức tạp, thể chế hợp tác đa phương toàn cầu gặp nhiều khó khăn..., cơ chế hợp tác nhóm đang nổi lên như một lựa chọn phổ biến của nhiều nước trong quan hệ quốc tế, vượt khỏi các khuôn khổ địa lý để kết nối, hợp tác với nhau trong các khuôn khổ thể chế hóa thấp, mục tiêu khiêm tốn, tập trung vào một vài nội dung hợp tác cụ thể, nhất là liên quan đến phát triển kinh tế - xã hội, các thách thức toàn cầu. Đối với Việt Nam, việc nghiên cứu về các phương thức, cách tiếp cận cơ chế hợp tác mới này sẽ góp phần cụ thể hóa việc triển khai đường lối đối ngoại được đề ra tại Đại hội XIII của Đảng.

Hợp tác nhóm (ba - bốn bên) được xây dựng trên cơ sở lý thuyết hợp tác tiểu đa phương, cụ thể là mô hình hợp tác nhóm quốc tế (international regimes). Theo khái niệm phổ biến do học giả người Mỹ Xtê-phen Crát-xnơ (Stephen Krasner) đề xuất, hợp tác nhóm quốc tế là quá trình hợp tác đa chủ thể giữa một số nước có cùng lợi ích, chia sẻ các giá trị hay tập quán quốc tế, thể hiện qua hệ thống các nguyên tắc, quy chuẩn, luật lệ, thủ tục để xử lý một số khía cạnh, lợi ích trong quan hệ giữa các nước(1).

Cơ chế hợp tác nhóm có những đặc điểm khác biệt so với các cơ chế hợp tác khác. Thứ nhất, cơ chế hợp tác nhóm thường chỉ giải quyết những vấn đề cụ thể, trong khi các tổ chức/thể chế quốc tế có nhiều mục tiêu trong nhiều vấn đề/lĩnh vực. Hợp tác nhóm thường tập trung tìm kiếm cơ hội hợp tác giữa các chủ thể quan hệ quốc tế trong một bối cảnh, tình huống và lĩnh vực cụ thể(2). Thứ hai, cơ chế hợp tác nhóm không phải là một dạng chủ thể trong quan hệ quốc tế như các tổ chức/thể chế quốc tế. Hợp tác nhóm có thể tồn tại bên trong một tổ chức/thể chế quốc tế, song cũng có thể tồn tại, hoạt động độc lập(3). Thứ ba, đặc điểm quan trọng của cơ chế hợp tác nhóm quốc tế là tính thể chế hóa còn thấp, lỏng lẻo. Đây là hình thức hợp tác mang tính trọng tâm cao và là tập hợp lực lượng theo chức năng dựa trên lĩnh vực cụ thể (hợp tác nhóm về kinh tế số), hay các tập hợp lực lượng dựa trên bản sắc hoặc có cùng quan điểm (hợp tác nhóm giữa các nền kinh tế mới nổi). Thứ tư, bốn thành tố chính của hợp tác nhóm quốc tế là các nguyên tắc, thông lệ, quy tắc và quy trình ra quyết sách để tạo điều kiện cho hợp tác giữa các thành viên(4). Chẳng hạn như, một số nước có lợi ích trong chia sẻ nguyên tắc, thông lệ và quy tắc về xây dựng kết cấu hạ tầng bền vững, chất lượng cao có thể tham gia thành một nhóm hợp tác. Các nước tin tưởng vào nguyên tắc bao trùm và công bằng trong sản xuất và phân phối vắc-xin phòng, chống dịch bệnh COVID-19 có thể tham gia thảo luận trong nhóm hợp tác về vấn đề này. Các nước có cùng quan điểm trong vấn đề quản trị không gian mạng có thể hình thành các nhóm hợp tác về quản trị kinh tế số.

Những ưu điểm và hạn chế của cơ chế hợp tác nhóm

Trong những năm qua, nhiều quốc gia trên thế giới đã thiết lập mới hoặc củng cố, tái khởi động các nhóm hợp tác quốc tế gồm ba - bốn bên. Từ thực tiễn triển khai của các nước, có thể thấy những ưu điểm và hạn chế của mô hình hợp tác này như sau.

Về ưu điểm:

Thứ nhất, từ góc độ đa phương, hợp tác nhóm quốc tế được xem là giải pháp phù hợp khi hợp tác ở cấp độ toàn cầu, quy mô lớn gặp khó khăn, bế tắc hoặc giảm tính nhạy cảm của việc “chọn bên” trong tập hợp lực lượng của các nước lớn và nguy cơ bị “mắc kẹt” trong cạnh tranh nước lớn. Sự chia sẻ các nguyên tắc, thông lệ và hợp tác trọng tâm, trọng điểm để hiện thực hóa các lợi ích chung là “sợi dây” kết nối các nước thành viên mặc dù được thiết lập hết sức linh hoạt và thể chế thấp, chủ yếu thông qua Tuyên bố chung của các cuộc họp (không có tính ràng buộc về pháp lý), không thiết lập các thể chế cồng kềnh.

Cơ chế hợp tác nhóm không chỉ chú trọng đến các dự án cụ thể mà còn cam kết và ủng hộ với các nguyên tắc, phương châm, giá trị hợp tác có tính khái quát, phù hợp với lợi ích của đa số các quốc gia ở khu vực. Trọng tâm của hợp tác giữa Mỹ, Ô-xtrây-li-a và Nhật Bản là “hỗ trợ và khuyến khích các dự án kết cấu hạ tầng tuân theo tiêu chuẩn quốc tế và nguyên tắc vì sự phát triển, như cởi mở, minh bạch và bền vững tài khóa”(5). Hợp tác ba bên Ấn Độ - Pháp - Ô-xtrây-li-a chia sẻ một loạt nguyên tắc chung về pháp quyền, tự do hàng hải, xử lý tranh chấp bằng biện pháp hòa bình, các giá trị dân chủ, tôn trọng chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ. Một chuyển động đáng chú ý gần đây cũng được dư luận hết sức quan tâm là hướng đi mới của hợp tác Nhóm “Bộ tứ” giữa Mỹ - Nhật Bản - Ấn Độ - Ô-xtrây-li-a. Cuộc gặp thượng đỉnh Nhóm “Bộ tứ” diễn ra vào ngày 12-3-2021 cho thấy sự điều chỉnh về cách tiếp cận của chính quyền Mỹ đối với Nhóm “Bộ tứ”, nhấn mạnh hợp tác dựa trên chọn lợi ích/nguyên tắc, từ đó tạo môi trường thuận lợi cho hợp tác giữa các nước thành viên.

Tổng thống Mỹ Joe Biden (từ trái qua phải) cùng Thủ tướng Australia Scott Morrison, Thủ tướng Ấn Độ Narendra Modi và Thủ tướng Nhật Bản Yoshihide Suga dự Hội nghị thượng đỉnh Nhóm “Bộ tứ”, diễn ra vào ngày 12-3-2021_Ảnh: AP

Thứ hai, từ góc độ song phương, hợp tác nhóm quốc tế giúp khắc phục những khó khăn, hạn chế trong quan hệ song phương, nhất là trong xây dựng lòng tin và thậm chí trong một số trường hợp có thể giúp giảm bớt sự nghi kị lẫn nhau. Việc lựa chọn thành viên trong cơ chế hợp tác nhóm quốc tế đóng vai trò hết sức quan trọng để xây dựng lòng tin và mở ra môi trường hợp tác khi có các rào cản trong quan hệ song phương. Hình thức trao đổi cởi mở, mang tính cá nhân giữa lãnh đạo các nước trong hợp tác nhóm quốc tế giúp tăng cường xây dựng lòng tin giữa các bên hợp tác trong bối cảnh cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn gia tăng.

Nhiều cơ chế hợp tác nhóm quốc tế ba - bốn bên được nâng cấp từ các cặp quan hệ song phương, hoặc hợp tác bốn bên được xây dựng trên nền tảng các cơ chế hợp tác ba bên giữa các thành viên. Đơn cử như, hợp tác Ấn Độ - Ô-xtrây-li-a - In-đô-nê-xi-a được hình thành trên cơ sở quan hệ Ấn Độ - Ô-xtrây-li-a và Ấn Độ - In-đô-nê-xi-a. Theo đó, Ấn Độ thiết lập “Tầm nhìn chung về hợp tác trên biển ở khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương” đối với cả Ô-xtrây-li-a và In-đô-nê-xi-a. Bốn thành viên của Nhóm “Bộ tứ” cũng có những cơ chế hợp tác ba bên đan xen lẫn nhau, như hợp tác Ấn Độ - Nhật Bản - Mỹ, Ấn Độ - Nhật Bản - Ô-xtrây-li-a, Mỹ - Ô-xtrây-li-a - Nhật Bản.

Đối với các quốc gia tầm trung, trong bối cảnh địa - chính trị toàn cầu biến động nhanh chóng và khó lường, việc thúc đẩy hợp tác thông qua các cơ chế hợp tác nhóm giúp các nước này có thể gia tăng tính tự chủ chiến lược trên cơ sở kết hợp, bổ trợ lẫn nhau. Bên cạnh đó, các nguyên tắc, thông lệ, quy tắc chung của quốc tế cũng như khu vực phù hợp với lợi ích quốc gia và giới hạn quy mô hợp tác là cơ sở để các quốc gia tầm trung có thể tối đa hóa lợi ích khi tham gia những sáng kiến khác nhau của các nước lớn. Xin-ga-po là một trong những minh chứng điển hình khi phát huy được thế mạnh về cung cấp dịch vụ kết nối, xử lý tranh chấp, giới hạn hợp tác trong một số lĩnh vực cụ thể, để có thể đồng thời hợp tác được với cả Mỹ và Trung Quốc. Tháng 3-2019, Xin-ga-po và Mỹ đã ký kết Bản ghi nhớ về hợp tác trong lĩnh vực kết cấu hạ tầng, theo đó Xin-ga-po đóng vai trò là cầu nối giữa các nhà đầu tư Mỹ với các dự án xây dựng hạ tầng ở khu vực(6). Trước đó, tháng 1-2019, Xin-ga-po và Trung Quốc cũng thống nhất về việc thành lập Ủy ban hòa giải quốc tế nhằm xử lý các tranh chấp giữa Trung Quốc và một bên thứ ba liên quan tới các dự án của Sáng kiến “Vành đai, Con đường” (BRI)(7).

Thứ ba, cơ chế hợp tác nhóm quốc tế mang lại lợi thế không nhỏ về tốc độ và sự linh hoạt. Do số lượng thành viên không nhiều nên các nước thành viên có thể hợp tác dễ dàng hơn, các hoạt động đối thoại, trao đổi được triển khai nhanh hơn với chi phí thấp hơn. Hợp tác nhóm quốc tế với quy mô nhỏ mang lại khả năng ra quyết sách nhanh, triển khai nhanh trong mạng lưới gồm số ít các quốc gia (thường có cùng tư tưởng, lập trường, quan điểm) thay vì phải mất thời gian, công sức và đàm phán, thỏa hiệp ở quy mô hàng chục, thậm chí hàng trăm quốc gia ở cấp độ đa phương. Các cuộc họp có thể tổ chức trực tiếp/trực tuyến hoặc bên lề các cơ chế hợp tác đa phương khác để tiết kiệm chi phí. Cơ chế hợp tác nhóm thường có lĩnh vực hợp tác khá trọng tâm, tập trung vào một số ít lĩnh vực cụ thể. Năm 2018, Mỹ - Ô-xtrây-li-a - Nhật Bản thiết lập quan hệ đối tác ba bên về đầu tư kết cấu hạ tầng ở khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương. Trong bối cảnh các chuỗi cung ứng ở khu vực chuyển dịch do cạnh tranh chiến lược nước lớn và dịch bệnh COVID-19, tháng 3-2021, ba nước Ô-xtrây-li-a, Nhật Bản và Ấn Độ đã chính thức công bố Sáng kiến “Chuỗi cung ứng tự cường” (SCRI), nhằm tìm kiếm khả năng củng cố tính bền vững của các chuỗi cung ứng cũng như đa dạng hóa các chuỗi cung ứng. Cơ chế hợp tác nhóm quốc tế thậm chí có thể chỉ tập trung vào một số dự án cụ thể, như Dự án đường cao tốc châu Á số 3 liên kết Trung Quốc - Lào - Thái Lan; Dự án đường sắt Trung Quốc - Lào - Thái Lan, hay hợp tác bốn bên Trung Quốc - Mi-an-ma - Ấn Độ - Hàn Quốc để xây dựng tuyến đường ống giữa Trung Quốc và Mi-an-ma.

Dự án đường sắt Trung Quốc - Lào - Thái Lan_Ảnh: Vientiane Times

Đáng chú ý, chuyển đổi số ngày càng trở thành lĩnh vực được nhiều nước quan tâm với sự xuất hiện của các cơ chế hợp tác nhóm quốc tế có thành viên phân tán về địa lý, như Hợp tác số (“Digital 5”) giữa Anh, E-xtô-ni-a, Hàn Quốc, I-xra-en và Niu Di-lân (sau này được nâng cấp thành Cơ chế “các quốc gia số”) được thành lập vào năm 2014(8). Những năm gần đây, Xin-ga-po cũng được xem là một trong những quốc gia rất tích cực tìm kiếm và tham gia các cơ chế hợp tác ba bên về kinh tế số, như Hiệp định kỹ thuật số Ô-xtrây-li-a - Xin-ga-po - Niu Di-lân, Hiệp định đối tác kinh tế số Xin-ga-po - Chi-lê - Niu Di-lân. Hợp tác nhóm cũng giúp các thành viên phân công lao động, chia sẻ trách nhiệm và đóng góp trên cơ sở cam kết tự nguyện. Sự phối hợp hành động giữa các thành viên Nhóm “Bộ tứ” về sản xuất, phân phối vắc-xin phòng, chống dịch bệnh COVID-19, là một ví dụ. Trong đó, Ấn Độ chịu trách nhiệm sản xuất;  Mỹ, Nhật Bản và Ô-xtrây-li-a cung cấp các công cụ huy động nguồn lực tài chính và phân phối vắc-xin(9).

Thứ tư, hợp tác nhóm quốc tế giúp thiết lập mô hình đủ linh hoạt để thu hút sự tham gia của các nước mà không tạo gánh nặng về chi phí. Hợp tác nhóm quốc tế không thành lập trụ sở, nhân sự riêng, nguồn ngân sách cũng như vị trí pháp lý như các tổ chức quốc tế và khu vực. Các lĩnh vực của hợp tác nhóm quốc tế cũng khá đa dạng và linh hoạt, thường hướng tới xử lý “một số lĩnh vực giới hạn hoặc chỉ một vấn đề cụ thể”(10).

Phương thức triển khai của các cơ chế hợp tác nhóm quốc tế được tiến hành từ thấp tới cao, từ dễ tới khó với tính thể chế hóa thấp, giúp gia tăng mức độ dễ chấp nhận (comfort level) của các nước, từ đó giúp thúc đẩy việc ra quyết sách và hiệu quả hợp tác. Để bước đầu tạo niềm tin, mở ra không gian hợp tác, các nước Ấn Độ, Nhật Bản và Ô-xtrây-li-a đã lựa chọn hình thức hợp tác chia sẻ kinh nghiệm, đồng tổ chức các hoạt động xúc tiến đầu tư, tạo cơ sở để mở rộng hợp tác và triển khai một số dự án cụ thể. Việc tiến hành hợp tác có thể bắt đầu từ các cấp cơ sở, sau đó tiến tới cấp bộ trưởng và lãnh đạo cấp cao; hoặc có thể triển khai trước hết ở cấp đối thoại kênh 2 và kênh 1.5.

Về hạn chế:

Một là, đối với các mô hình hợp tác nhóm quốc tế có số lượng thành viên ít, có một số lập luận cho rằng, việc hợp tác theo các nhóm “tạm thời”, vụ, việc, có thể cổ xúy cho những lợi ích trước mắt của một nhóm nước, thay vì thúc đẩy cung cấp hàng hóa công quốc tế(11); đồng thời, có thể tác động tiêu cực tới các thể chế toàn cầu(12).

Hai là, tính thể chế hóa thấp và lỏng lẻo của cơ chế hợp tác nhóm, nhất là giữa các quốc gia tầm trung, có thể tạo ra “khoảng trống lãnh đạo”, dẫn dắt hợp tác cũng như thiếu sự đầu tư lâu dài về nguồn lực tài chính và ý tưởng hợp tác từ một thành viên có cam kết cao, nhiều tiềm lực(13). Điều này cũng ảnh hưởng không nhỏ tới việc xây dựng chương trình nghị sự hợp tác có trọng tâm, trọng điểm giữa các bên tham gia cơ chế này.

Ba là, tiến trình xây dựng lòng tin trong hợp tác nhóm quốc tế, nhất là giữa lãnh đạo các nước thành viên, dễ bị ảnh hưởng bởi môi trường quốc tế trong quá trình các nhóm hợp tác vận hành. Trong bối cảnh dịch bệnh COVID-19, việc tổ chức các hội nghị trực tiếp gặp nhiều khó khăn trong khi hợp tác nhóm quốc tế dựa vào tính thể chế hóa thấp và mối liên kết mạnh ở cấp độ cá nhân. Các hoạt động trao đổi trực tuyến có thể duy trì sự trao đổi thông tin, nhưng việc nắm bắt các “dấu hiệu”, như “ngôn ngữ cơ thể”, các trao đổi bên lề, “sắc thái” của đối tác... sẽ khó khăn hơn nhiều so với gặp gỡ trực tiếp. Đây là nhân tố có thể làm hạn chế kết quả đạt được của cơ chế hợp tác nhóm. Trên thực tế, mặc dù dịch bệnh COVID-19 đã trở thành vấn đề thảo luận của một số sáng kiến hợp tác nhóm quốc tế, song những nội dung hợp tác chủ yếu hạn chế ở mức thiết lập các quỹ ứng phó, chia sẻ thông tin và cam kết duy trì tính mở của các chuỗi cung ứng(14).

Một số vấn đề đặt ra đối với Việt Nam khi tham gia cơ chế hợp tác nhóm và những đề xuất chính sách

Thời gian qua, với chủ trương hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng, Việt Nam đã tham gia và đóng góp ngày càng tích cực, chủ động, đa dạng về cấp độ, hình thức, phương thức, đối tác và có nhiều chuyển biến cả về số lượng (hơn 70 cơ chế, tổ chức) lẫn chất lượng(15) tại các diễn đàn hợp tác đa phương quốc tế; đạt nhiều thành tựu to lớn, góp phần quan trọng vào việc bảo vệ chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ quốc gia, duy trì môi trường hòa bình, ổn định, tăng cường và làm sâu sắc hơn các mối quan hệ song phương, nâng cao vị thế quốc gia, thu hút mọi nguồn lực phục vụ phát triển đất nước. Đáng chú ý, hoạt động đối ngoại đa phương Việt Nam đã vươn ra phủ sóng một mạng lưới rộng lớn gồm hầu hết các cơ chế hợp tác, liên kết kinh tế đa phương từ cấp độ toàn cầu, liên khu vực, khu vực, tiểu vùng, cho đến mạng lưới 17 hiệp định thương mại tự do (FTA) với hầu hết các trung tâm kinh tế - thương mại hàng đầu thế giới. Hợp tác đa phương trong các lĩnh vực chuyên ngành khác, như khoa học - công nghệ, giáo dục - đào tạo, y tế, văn hóa, an sinh xã hội, lao động, thông tin truyền thông, môi trường, du lịch... ngày càng được mở rộng phong phú, đa dạng. Việt Nam hiện chưa tham gia nhiều cơ chế hợp tác nhóm quốc tế, chủ yếu tập trung ở tiểu vùng sông Mê Công (Tam giác phát triển Việt Nam – Lào - Cam-pu-chia, Hợp tác Cam-pu-chia - Lào - Mi-an-ma - Việt Nam), hay hợp tác Nam - Nam, như mô hình hợp tác nông nghiệp Việt Nam - Nhật Bản - Mô-dăm-bích/châu Phi).

Ủy viên Bộ Chính trị, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc dự Hội nghị cấp cao hợp tác Campuchia - Lào - Myanmar - Việt Nam lần thứ 10 theo hình thức trực tuyến, ngày 9-12-2020_Ảnh: TTXVN

Thực tiễn hợp tác nhóm quốc tế cho thấy, xu hướng nhân rộng mô hình hợp tác nhóm thể chế hóa thấp, theo vấn đề/dự án/lĩnh vực (hay còn gọi là hợp tác nhóm chuyên biệt) giữa ba - bốn nước/bên, dựa trên những nguyên tắc chung và phù hợp với lợi thế, nhu cầu của các bên có thể là sự lựa chọn bổ sung về chính sách hiệu quả với một nước đang phát triển như Việt Nam. Việc chủ động, tích cực, tìm tòi, sáng tạo trong phát huy mô hình này sẽ làm sâu sắc hơn các quan hệ song phương, bổ trợ cho mạng lưới hợp tác, liên kết đa phương đa tầng nấc, đa lĩnh vực, góp phần phát huy vai trò tiên phong của đối ngoại, tiếp tục tăng cường hội nhập quốc tế sâu rộng và toàn diện, phục vụ mục tiêu an ninh, phát triển và nâng cao vị thế của đất nước đến năm 2030.

Trong bức tranh tổng thể về đối ngoại đa phương của Việt Nam, có thể thấy Việt Nam vẫn còn nhiều dư địa, tiềm năng để thúc đẩy, nhân rộng cơ chế hợp tác nhóm quốc tế với tất cả các đối tác, nhất là trong hợp tác phát triển, hợp tác chuyên ngành, giải quyết các vấn đề an ninh phi truyền thống, trên những cơ sở sau:

Thứ nhất, xây dựng cơ chế hợp tác nhóm quốc tế dựa trên sự kết hợp, nâng cấp các cặp hợp tác song phương ở quy mô nhỏ, linh hoạt và có thể quản lý được nhằm tăng cường sự đan xen lợi ích và mức độ minh bạch chính sách, tạo thêm biện pháp xây dựng lòng tin, khai thác, bổ sung tốt hơn nhu cầu, thế mạnh của nhau, nhất là từ các nước có tiềm lực kinh tế, công nghệ lớn hơn (hay còn gọi là “đầu tàu”/động lực của nhóm). Đặc thù lựa chọn thành viên linh hoạt dựa trên lợi ích/thế mạnh hơn là không gian địa lý cũng mở rộng không gian hợp tác giữa Việt Nam với các nước so với các cơ chế tiểu vùng, khu vực hiện có.

Thứ hai, mở rộng và củng cố thêm hệ thống các nguyên tắc, phương châm, giá trị hợp tác phù hợp với luật pháp quốc tế và lợi ích quốc gia - dân tộc mà Việt Nam đang theo đuổi, ủng hộ trong các cơ chế, tổ chức đa phương ở mọi cấp độ. Việc lựa chọn các nguyên tắc, thông lệ hợp tác phù hợp với những nguyên tắc, thông lệ của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) sẽ góp phần củng cố thêm các giá trị và vai trò trung tâm của ASEAN trong cấu trúc khu vực châu Á - Thái Bình Dương đang định hình.

Thứ ba, gia tăng tính bổ trợ giữa tham gia hợp tác nhóm với sự tham gia của Việt Nam trong các thể chế đa phương toàn cầu và khu vực theo hướng tận dụng tính thể chế hóa thấp và quy mô “tiểu đa phương” của cơ chế hợp tác nhóm để khắc phục một số bất cập (tốc độ ra quyết sách, hiệu quả hợp tác...) của các cơ chế đa phương quy mô lớn, có quy trình, thủ tục phức tạp do tính thể chế hóa cao.

Thứ tư, tập trung triển khai hợp tác một/một vài vấn đề/dự án trọng điểm cụ thể, để bảo đảm hiệu quả hợp tác, khắc phục tình trạng các cơ chế đa phương, tiểu vùng có quá nhiều nội dung hợp tác chồng chéo dẫn đến dàn trải nguồn lực, giảm tính hiệu quả. Mô hình hợp tác theo vấn đề, chú trọng kết quả ngày càng được nhiều nước cam kết đầu tư, nhất là các nước lớn, đồng thời mở ra cơ hội cho các quốc gia tầm trung, các nước đang phát triển phát huy vai trò dẫn dắt ý tưởng, sáng kiến, chủ động mở rộng mạng lưới hợp tác, liên kết; tạo tiền đề thiết lập thêm những khuôn khổ đối tác chiến lược theo ngành/lĩnh vực.

Văn kiện Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh khát vọng phát triển đất nước và vai trò tiên phong của đối ngoại trong việc tạo lập và giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, huy động các nguồn lực bên ngoài để phát triển đất nước, nâng cao vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế. Đại hội XIII của Đảng cũng nêu rõ nhiệm vụ chủ động và tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng trên các lĩnh vực, các tầng nấc khác nhau với mức độ tham gia, đóng góp thực chất hơn, cam kết và đan xen lợi ích cao hơn; đối ngoại đa phương cần chủ động tham gia, tích cực đóng góp, nâng cao vai trò của Việt Nam trong xây dựng, định hình các thể chế đa phương(16). Trước đó, Chỉ thị số 25/CT-TW, ngày 8-8-2018, của Ban Bí thư, “Về đẩy mạnh và nâng tầm đối ngoại đa phương đến năm 2030”, đã xác định đối ngoại đa phương trong lĩnh vực kinh tế là trọng tâm ưu tiên, phục vụ mục tiêu hàng đầu là phát triển kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế của đất nước, đồng thời chú trọng nâng cao chất lượng đối ngoại đa phương trong các lĩnh vực xã hội, môi trường, giáo dục - đào tạo, khoa học - công nghệ, văn hóa, y tế..., triển khai hiệu quả Chương trình nghị sự đến năm 2030 về phát triển bền vững của Liên hợp quốc và Thỏa thuận Pa-ri về biến đổi khí hậu được ký kết vào năm 2015. Chỉ thị nhấn mạnh việc mở rộng thiết lập, tăng cường các cơ chế hợp tác nhóm cần bám sát một số phương châm: Thứ nhất, luôn bảo đảm lợi ích quốc gia - dân tộc, đồng thời cân bằng, hài hòa với quan tâm chính đáng của đối tác. Thứ hai, giữ vững độc lập, tự chủ, không tập hợp lực lượng để chống bên thứ ba, công khai, minh bạch. Thứ ba, chủ động, tích cực phát huy sáng kiến, tìm kiếm và kết nối ba - bốn bên với tất cả các đối tác chia sẻ lợi ích và nguyên tắc hợp tác (bình đẳng, cùng có lợi, tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, luật pháp quốc tế, vì hòa bình, ổn định, thịnh vượng chung), có thế mạnh phù hợp với nhu cầu, lợi ích của Việt Nam, nhất là lợi ích phát triển. Thứ tư, phát huy vai trò tiên phong của ngoại giao và bám sát trọng tâm của ngoại giao phục vụ phát triển, huy động tối đa nguồn lực, chia sẻ kinh nghiệm của quốc tế cho phát triển trong nước; đồng hành cùng các bộ, ngành, lấy địa phương, doanh nghiệp và người dân làm trung tâm phục vụ(17).

Để triển khai cụ thể các định hướng chiến lược trên, Chính phủ Việt Nam đang tích cực đẩy mạnh tìm kiếm đối tác và khuôn khổ hợp tác, liên kết ở các cấp độ trong một số lĩnh vực/vấn đề ưu tiên, như xây dựng kinh tế số, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn thích ứng với biến đổi khí hậu, các dự án hạ tầng chiến lược, năng lượng, công nghiệp chế tạo và phụ trợ, công nghiệp môi trường, nông nghiệp chất lượng cao, điện tử, công nghệ thông tin và truyền thông, y tế, công nghệ sinh học, đô thị thông minh, lô-gi-stíc(18)... Từ góc độ của ngành ngoại giao, có thể xem xét triển khai một số biện pháp cụ thể sau:

Một là, bổ sung cơ chế hợp tác nhóm ba - bốn bên vào các chiến lược, kế hoạch hành động của hoạt động đối ngoại Việt Nam đến năm 2030 với mục tiêu đưa mô hình này trở thành một phương thức hiệu quả trong huy động nguồn lực cho phát triển, tăng cường đan xen lợi ích và mức độ tin cậy với các đối tác, bổ trợ và làm phong phú thêm cho công tác đối ngoại đa phương, hợp tác tiểu vùng.

Hai là, chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành xác định một số vấn đề/lĩnh vực ưu tiên của Việt Nam trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2021 - 2030; nắm bắt kịp thời các xu thế hậu dịch bệnh COVID-19, như đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, phát triển mạnh mẽ khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số, hạ tầng trọng yếu về giao thông, năng lượng, công nghệ thông tin, hạ tầng ứng phó với biến đổi khí hậu, hạ tầng số, hạ tầng dữ liệu quốc gia, nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, ứng phó biến đổi khí hậu, y tế..., trên cơ sở đó tiến hành tìm hiểu, nghiên cứu xây dựng kế hoạch tổng thể hoặc cơ sở dữ liệu về nhu cầu, thế mạnh của các đối tác, khả năng kết nối, nhất là với các đối tác lớn có khả năng đóng vai trò động lực/đầu tàu cho hợp tác nhóm trong từng lĩnh vực cụ thể. Việc lựa chọn một số nhóm hợp tác ba - bốn bên về các lĩnh vực mà Việt Nam đang thực sự cần với các đối tác có tiềm lực, thế mạnh trong lĩnh vực đó sẽ giúp tạo ra kết quả hợp tác thực chất, tiết kiệm nguồn lực thay vì phải tham gia nhiều cơ chế hợp tác có nội dung chồng chéo.

Ba là, ngoài những đề xuất của các đối tác, có thể chủ động tìm hiểu, nêu ý tưởng, sáng kiến về thiết lập các nhóm mới và nội dung hợp tác với các đối tác tiềm năng phù hợp, từ đó kết nối các đối tác và trao đổi, thống nhất về vấn đề/lĩnh vực hợp tác, mục tiêu, nguyên tắc, điều khoản và khung thời gian hợp tác, thể thức họp và văn kiện công bố thành lập nhóm theo hướng thể chế hóa thấp, linh hoạt (không có ban thư ký, chủ yếu hợp tác cấp chuyên gia, họp bên lề các sự kiện đa phương hoặc riêng rẽ). Các hoạt động cụ thể có thể tiến hành họp theo cấp đối thoại kênh 1, kênh 2(19) hoặc kết hợp giữa hai kênh (kênh 1.5).

Bốn là, trong đề xuất và triển khai hợp tác nhóm cần phát huy thế mạnh, đặc thù của ngành ngoại giao và mạng lưới 94 cơ quan đại diện của Việt Nam ở nước ngoài; đồng thời, xây dựng cơ chế, phương thức tăng cường phối hợp với các bộ, ngành liên quan, gắn kết trực tiếp với địa phương, doanh nghiệp; đẩy mạnh đào tạo nguồn nhân lực về đối ngoại có trình độ, kỹ năng tham gia, dẫn dắt các hoạt động ngoại giao toàn diện, mang tính liên ngành, đa lĩnh vực phục vụ phát triển, hay còn gọi là “ngoại giao chuyên biệt”./.

---------

(1) Stephen Krasner: “Structural Causes and Regime Consequences: Regimes as Intervening Variables”, International Organization, 36 (2), 1982, tr. 186
(2) Andrew Schotter: The economic theory of social institutions, Cambridge University Press, 1981
(3) Harald Müller: “The Internalization of Principles, Norms, and Rules by Governments: The Case ofSecurity Regimes”, in: Volker Rittberger, ed., with the assistance of Peter Mayer, Regime Theory and International Relations, Oxford: Clarendon Press, 1995, tr. 361 - 387.  Carsten Otto: “International Regimes” in the Asia-Pacific? The Case of APEC”, in: Jrn Dosch andManfred Mols, eds., International Relations in the Asia-Pacific: New Patterns of Power, Interest,and Cooperation, New York: St. Martin’s Press, 2000, tr. 39 - 66
(4) Stephen Krasner: “Structural Causes and Regime Consequences: Regimes as Intervening Variables”, Tlđd, tr. 186
(5) Xem: Prime Minister of Australia: “Joint Statement of The Governments of Australia, Japan, and the United States of America on the Trilateral Partnership for infrastructure investment in the Indo-Pacific”, Media Release, ngày 17-11-2018, https://www.pm.gov.au/media/joint-statement-governments-australia-japan-and-united-states
(6) Charissa Yong: “Singapore, US to cooperate in promoting infrastructure development in Asia”, The Straits Times, 2019, https://www.straitstimes.com/asia/singapore-us-to-cooperate-in-promoting-infrastructure-development-in-asia
(7) Kentaro Iwamoto: “Singapore to be dispute resolution hub for Belt and Road”, Nikkei Asia, 2019, https://asia.nikkei.com/Spotlight/Belt-and-Road/Singapore-to-be-dispute-resolution-hub-for-Belt-and-Road
(8) Xem: Bennet Institute for Public Policy:  “Digital Minilateralism: How governments cooperate on digital governance”, ngày 19-10-2020, https://www.bennettinstitute.cam.ac.uk/publications/digital-minilateralism-how-governments-cooperate-d/
(9) Xem: The White House: Fact Sheet: Quad Summit, ngày 12-3-2021, https://www.whitehouse.gov/briefing-room/statements-releases/2021/03/12/fact-sheet-quad-summit/
(10) Young, R. Oran: “Regime dynamics: The rise and fall of international regimes”, in: Krasner, S. (ed.), International Regimes, Ithaca: Cornell University Press, 1994,  tr. 93 - 113
(11) Robert O. Keohane, Joseph S. Jr Nye: The club model of multilateral cooperation and problems of democratic legitimacy. In Efficiency, equality, legitimacy: The multilateral trading system at the millennium, eds. Porter Roger etal. Washington, DC: Brookings Institution, 2001
(12) Stewart Patrick: “The New ‘New Multilateralism’: Minilateral Cooperation, But At What Cost?”, Global Summitry, vol. 1, no. 2, 2015
(13) Sung-Mi Kim, Sebastian Haug and Susan Harris Rimmer: “Minilateralism Revisited: MIKTA as Slender Diplomacy in a Multiplex World.” Global Governance, vol. 24, no. 4, 2018
(14) Malcolm Cook and Hoang Thi Ha: “Beyond China, the USA and ASEAN: Informal Minilateral Options”, ISEAS Perspective No. 63, 2020
(15) Xem: Lê Hoài Trung: “Đối ngoại đa phương góp phần đẩy mạnh hội nhập, tăng cường sức mạnh đất nước”, Báo Thế giới và Việt Nam điện tử, ngày 16-1-2019, https://baoquocte.vn/doi-ngoai-da-phuong-gop-phan-day-manh-hoi-nhap-tang-cuong-suc-manh-dat-nuoc-85683.html.
(16) Xem: Bùi Thanh Sơn: “Đường lối đối ngoại Đại hội XIII với khát vọng phát triển của đất nước”, Báo Nhân dân điện tử, https://nhandan.vn/dang-va-cuoc-song/duong-loi-doi-ngoai-dai-hoi-xiii-voi-khat-vong-phat-trien-cua-dat-nuoc-640738/, ngày 3-4-2021
(17) Xem: Bùi Thanh Sơn: “Nâng cao hiệu quả hoạt động đối ngoại, chủ động hội nhập quốc tế, tạo môi trường hòa bình và điều kiện thuận lợi để phát triển đất nước”, báo điện tử Chính phủhttp://baochinhphu.vn/Hoat-dong-Bo-nganh/Nang-cao-hieu-qua-hoat-dong-doi-ngoai-chu-dong-hoi-nhap-quoc-te-tao-moi-truong-hoa-binh-va-dieu-kien-thuan-loi-de-phat-trien-dat-nuoc/420999.vgp
(18) Xem thêm: Toàn văn phát biểu của Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính tại Hội nghị về tương lai
châu Á, https://www.vietnamplus.vn/toan-van-phat-bieu-cua-thu-tuong-tai-hoi-nghi-ve-tuong-lai-chau-a/713999.vnp, ngày 20-5-2021,

(19) Đối thoại kênh 1 - kênh ngoại giao chính thức của Nhà nước với hình thức chủ yếu là đàm phán, thương lượng; đối thoại kênh 2 - là những biện pháp ngoại giao bên ngoài kênh ngoại giao chính thức của Nhà nước, với chủ thể là các chuyên gia, học giả, viện nghiên cứu (think-tanks)