Bình đẳng giới trong ngành thủy sản Quảng Ninh: hành trình còn lắm gian nan
Phụ nữ trong ngành thủy sản Quảng Ninh
Với mục tiêu giúp các bộ phận dân cư nông thôn tham gia hoạt động nghề cá được hưởng lợi từ sự phát triển bền vững của ngành thủy sản Quảng Ninh, Chương trình hỗ trợ ngành thủy sản được DANIDA phối hợp cùng Sở Nông nghiệp tỉnh Quảng Ninh và nhóm nghiên cứu đã tổng hợp, sàng lọc những kết quả từ các cuộc khảo sát, thảo luận và lấy ý kiến thành các khuyến nghị ưu tiên chính sách rõ ràng về giải pháp bình đẳng giới và thúc đẩy bình đẳng giới trong các xã dự án tại Quảng Ninh.
Thời gian qua, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Quảng Ninh đã tập trung thực hiện tốt công tác bình đẳng giới, thực hiện tuyên truyền các văn bản quy phạm pháp luật về bình đẳng giới; chỉ đạo xây dựng bộ máy và đội ngũ cán bộ làm công tác trong lĩnh vực này... Báo cáo việc thực hiện các mục tiêu quốc gia về bình đẳng giới của Công đoàn ngành thủy sản Quảng Ninh cho thấy hiệu quả của những chính sách trong kế hoạch phát triển của ngành thuỷ sản, thực hiện tốt chính sách của Đảng và Nhà nước, tạo điều kiện phát triển cho phụ nữ, đối tượng chủ yếu để thúc đẩy bình đẳng giới trong sự phát triển kinh tế của ngành thuỷ sản Quảng Ninh.
Phụ nữ Quảng Ninh nói chung và phụ nữ tại các xã dự án nói riêng chiếm tỷ lệ hơn 50% dân số, gần 60% lực lượng lao động trong buôn bán và các dịch vụ về nghề cá, đặc biệt chiếm hơn 80% trong lao động chế biến thuỷ sản, họ đóng vai trò rất lớn trong sự phát triển bền vững của ngành thuỷ sản; đồng thời góp phần quyết định việc phát triển thế hệ lao động, thế hệ tương lai của đất nước thông qua hoạt động chăm sóc gia đình, nuôi dưỡng con cái. Ngày càng có nhiều phụ nữ tham gia hầu hết các lĩnh vực của đời sống xã hội và giữ những chức vụ quan trọng trong bộ máy Nhà nước. Trong khối cơ quan ngành thuỷ sản Quảng Ninh, tỷ lệ phụ nữ tham gia cấp ủy Đảng đạt từ 15 - 20%.
Khi được hỏi về nghề thủy sản đối với phụ nữ, nhiều ý kiến trả lời là “phù hợp”. Phụ nữ cho rằng, đây là thế mạnh của người nội trợ, vừa giúp đỡ được gia đình, nuôi dạy con cái, đồng thời thể hiện vai trò của người phụ nữ trong công việc. Tuy nhiên, cũng có ý kiến khác như làm việc vất vả, lương thấp, công việc không ổn định do dịch bệnh, khí hậu, thị trường biến động…; công việc không đòi hỏi trình độ, kinh nghiệm kỹ năng, ít phát huy được tính năng động và quan hệ xã hội hay tiếp cận cơ hội khác v.v..
Bảng 1: Những điểm khác biệt do yếu tố giới và mong muốn trong tương lai (%)
|
|
Phụ nữ |
Nam giới |
|
Việc làm ổn định |
52 |
47 |
|
Thành đạt về kinh tế |
26 |
25 |
|
Gia đình và vai trò làm bố /mẹ |
12 |
10 |
|
Hạnh phúc nói chung |
8 |
9,2 |
|
Đóng góp cho đất nước |
10 |
9 |
|
Mong muốn tiếp cận các cơ hội việc làm |
38 |
36,1 |
|
Cơ hội được đào tạo, giáo dục |
19 |
15,9 |
Khi được hỏi về vấn đề thời gian, rất nhiều phụ nữ mong muốn được làm việc tại nơi mình sinh ra, bằng nghề truyền thống của địa phương, để có nhiều điều kiện và thời gian chăm sóc gia đình. Tuy nhiên, ngoài công việc như nam giới tại cơ quan, xí nghiệp hay đơn vị tư nhân thì lao động nữ làm thêm công việc gia đình từ 6-8 giờ/ngày.
Có tới 71% đến 83% lao động cho rằng có nhiều lợi thế trong ngành thủy sản, với nghề sẵn có từ lâu đời của địa phương và các nguồn lực thủy, hải sản tại Quảng Ninh. Tuy nhiên, vẫn có ý kiến trái ngược, thể hiện qua một số điểm bất lợi tập trung vào các vấn đề liên quan trực tiếp hay gián tiếp đến thời gian và điều kiện làm việc, như phải làm nhiều giờ ngoài trời bất kể thời tiết nào trong môi trường nước ô nhiễm và nhiều hóa chất, nguồn tài nguyên ngày một cạn kiệt do nhiều yếu tố trong đó có yếu tố do chính con người đem lại… Nhiều ý kiến cho biết, điều kiện làm việc gây ảnh hưởng đến sức khỏe do môi trường làm việc ô nhiễm. Thêm vào đó, đặc thù công việc khiến lao động nữ không còn thời gian rảnh cho hoạt động thể thao, nghỉ ngơi hay tham gia các hoạt động xã hội, thậm chí đi chùa hay lễ hội phần lớn chỉ từ 1 đến 2 lần /năm.
Chỉ số bất bình đẳng giới trong ngành thủy sản Quảng Ninh
Chỉ số thiệt thòi giới đầu tiên liên quan đến việc phân bổ lao động theo tiêu chí giới trong ngành thủy sản. Tổng số có 58% nam giới và phụ nữ đang làm công việc thủy sản, trong đó 80% phụ nữ và 18% nam giới đang làm những công việc dịch vụ chế biến thuỷ sản. Nam giới thường có xu hướng chiếm ưu thế trong những công việc tạo thu nhập trong đánh bắt, nuôi trồng thủy sản, cung cấp và vận chuyển hàng hóa thủy sản. Nữ giới chiếm số đông trong công việc dịch vụ như buôn bán, chế biến và chăm sóc nuôi trồng, chế biến thủy sản hay công việc xã hội trong thôn, xã. Điều này chứng tỏ nam giới có nhiều cơ hội lựa chọn hơn nữ và có xu hướng được tuyển dụng vào các doanh nghiệp nhà nước và tư nhân hơn.
Chỉ số thiệt thòi thứ hai liên quan đến việc phân chia lao động trong ngành thủy sản. Số đông nam giới có xu hướng nắm giữ vị trí cao hơn, công việc có thu nhập cao hơn và có nhiều cơ hội ra quyết định hơn; trong khi đó, phụ nữ có xu hướng làm những công việc có thu nhập thấp, ít có vị trí và điều kiện ra quyết định hoặc được đề bạt. Thậm chí trong những công việc phụ nữ chiếm số đông, thì nam giới vẫn nắm giữ nhiều vị trí cao hơn.
Chỉ số thiệt thòi thứ ba liên quan đến bất bình đẳng về thu nhập lao động. Kinh tế thị trường tạo điều kiện cho nam giới - những người có học vị, trình độ chuyên môn cao, có cơ hội lựa chọn ngành nghề, vị trí trong xã hội hơn, trong khi đó nữ giới ít có cơ hội học tập, nâng cao trình độ chuyên môn cũng như điều kiện được đào tạo, giáo dục.
Chỉ số thiệt thòi thứ tư liên quan đến bất bình đẳng trong khối lượng công việc, hạn chế tiếp cận thông tin thị trường xã hội. Mặc dù có sự khác biệt trong bày tỏ mong muốn về tương lai của nam và nữ, song mong mỏi lớn nhất của những người được hỏi là có công việc ổn định, thu nhập cao, thành đạt trong cuộc sống và hạnh phúc trong gia đình. Số đông đều chưa hài lòng với công việc hiện tại vì thu nhập quá thấp, điều kiện làm việc không tốt, ít có cơ hội thăng tiến. Điều quan trọng nhất là thông qua chương trình dự án tài trợ phát triển ngành thủy sản ở tỉnh Quảng Ninh, người lao động được cải thiện nâng cao cuộc sống, tận dụng thế mạnh và tiềm năng sẵn có của địa phương, một số thực hiện được ước vọng làm giàu trên chính quê hương của mình.
Giải pháp phát huy bình đẳng giới trong sự phát triển kinh tế của ngành thuỷ sản Quảng Ninh
Để tìm ra những giải pháp tối ưu nhằm thực hiện công tác bình đẳng giới tại ngành thủy sản Quảng Ninh cho thời gian tới, nhóm tư vấn đã cố gắng đưa ra những thông số thực tế và những kinh nghiệm về công tác bình đẳng giới trong cả nước để xác định rõ một số vấn đề liên ngành, tổng hợp đưa ra những khuyến nghị, giải pháp cho việc xây dựng kế hoạch hành động giới thúc đẩy sự phát triển kinh tế nông thôn.
Bảng 2: Kết cấu giới theo trình độ chuyên môn (%)
|
Bản chất công việc |
Phụ nữ |
Nam giới |
|
Không có trình độ chuyên môn |
55,1 |
44,9 |
|
Đào tạo kỹ thuật |
27,5 |
72,5 |
|
Đào tạo nghề |
55,3 |
56,7 |
|
Cao đẳng kỹ thuật |
22,6 |
27,4 |
|
Sau đại học |
5,5 |
8,5 |
Một là, nâng cao hiểu biết cho cộng đồng, đặc biệt cho những người ra quyết định và thực thi chính sách, chiến lược; nghiên cứu bổ sung một số chính sách, chế độ đối với lao động nữ, tạo điều kiện nâng cao mức sống, xây dựng nhà trẻ cho con em lao động, giúp nữ lao động chuyên tâm vào công tác xã hội và phát huy tài năng; giảm điều kiện làm việc độc hại, nặng nhọc. Nếu đóng đủ 25 năm bảo hiểm xã hội, lao động nữ có thể nghỉ hưu sớm ở độ tuổi 45.
Hai là, vai trò của số liệu và thông tin, đặc biệt là sự sẵn có, khả năng tiếp cận và sử dụng thông tin. Trước hết, bảo đảm có số liệu đã được phân tích. Thứ hai, liên quan đến tiếp cận với những số liệu có sẵn. Hiện nay, các nhà nghiên cứu phải “mua” số liệu phân tích giới của chính phủ. Thông tin này không chỉ cần thiết đối với chính sách pháp luật và lập kế hoạch dựa trên bằng chứng mà còn nâng cao sự hiểu biết của công chúng thông qua các chiến dịch thông tin và tuyên truyền. Thông tin cần có sẵn và dễ tiếp cận đối với nhà nghiên cứu và người dân. Thứ ba, đối với việc di cư của phụ nữ, nhóm lao động sống xa dân cư, hải đảo, vùng sâu, vùng xa, cần có chế độ trợ cấp và sự quan tâm để những phụ nữ này có thể tiếp cận và hưởng lợi từ sự phát triển của cả nền kinh tế nói chung và ngành thuỷ sản nói riêng. Thứ tư, khi đã lên kế hoạch cụ thể dựa trên kết quả nghiên cứu, khảo sát đánh giá thực tế tại thực địa của dự án, vấn đề trọng tâm nhất là việc thực hiện. Đó là vấn đề sắp xếp thể chế của Ban Quản lý dự án Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, vấn đề ngân sách, nguồn lực con người, năng lực và tâm huyết của đội ngũ cán bộ, nhiệm vụ và vai trò của các tổ chức thanh niên, Hội Phụ nữ, Hội Nông dân tại địa phương, nhận thức của cộng đồng dân cư, những chính sách đồng bộ của tỉnh thực hiện chương trình vì sự tiến bộ của phụ nữ. Để hạn chế bất bình đẳng giới tại địa phương cần hội tụ đủ một bộ máy có đủ nguồn lực tài chính và nhân sự.
Để đạt nhiều tiến bộ hơn về bình đẳng giới trong ngành thủy sản Quảng Ninh, cần có những giải pháp sau:
Thứ nhất, tuyên truyền, phổ biến pháp luật để nâng cao nhận thức của toàn xã hội về bình đẳng giới. Đặc biệt lồng ghép giữa chương trình tư vấn hỗ trợ phát triển ngành thủy sản tại Quảng Ninh với các chương trình quốc gia và của tỉnh.
Thứ hai, xây dựng, hoàn thiện và thực hiện pháp luật, cơ chế, chính sách chương trình, dự án về bình đẳng giới và các giải pháp phù hợp với mục tiêu bình đẳng giới nhằm tạo điều kiện cho sự phát triển của phụ nữ góp phần phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn nói chung và các hoạt động nghề cá nói riêng tại Quảng Ninh, đặc biệt tại các xã của dự án.
Thứ ba, kiện toàn hệ thống tổ chức quản lý nhà nước và nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ làm công tác bình đẳng giới từ sở đến các đơn vị, các tổ chức, cá nhân tại các địa phương, cơ sở, xã thôn trong ngành, khẳng định vai trò cầu nối, nhà tư vấn hỗ trợ với mục tiêu giúp các bộ phận dân cư nông thôn bị thiệt thòi hơn trong hoạt động nghề cá và được hưởng lợi từ các chương trình tài trợ của ngành, của tỉnh, của chính phủ cũng như các tổ chức phi chính phủ.
Thứ tư, đẩy mạnh nghiên cứu khoa học hợp tác với các tổ chức trong và ngoài tỉnh, nước ngoài (đa phương, song phương, với các tổ chức phi chính phủ) về bình đẳng giới. Thường xuyên tập huấn nghiệp vụ công tác bình đẳng giới cho đội ngũ cán bộ làm công tác bình đẳng giới, nâng cao năng lực, phát huy tính sáng tạo và trách nhiệm trong thực hiện bình đẳng giới tại Quảng Ninh.
Thứ năm, tăng cường các tổ chức giám sát việc thực hiện luật pháp, nhất là việc thực hiện lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong văn hóa quy phạm pháp luật, trong ngân sách qui định, quyết định ngân sách dự toán, phân bổ ngân sách hằng năm, xây dựng các chương trình kế hoạch mục tiêu của Sở Nông nghiệp sát với chương trình mục tiêu quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2011 - 2015.
Thứ sáu, sự tham gia của phụ nữ vào các diễn đàn tập thể mà ở đó những quyết định quan trọng sẽ được đưa ra có tác động đến đời sống của họ và cộng đồng. Mục tiêu của quốc gia là nâng cao tỷ lệ nữ nắm giữ các vị trí lãnh đạo (hiện nay tỷ lệ này vẫn thấp trong ngành thuỷ sản Quảng Ninh). Với những ưu tiên xây dựng giải pháp hạn chế bất bình đẳng giới của ngành thuỷ sản Quảng Ninh, cùng với sự hỗ trợ của tổ chức DANIDA, và những kinh nghiệm, nhóm tư vấn đưa ra khuyến nghị phải giải quyết những định kiến lâu nay về giới. Những chiến lược nhằm thay đổi thái độ đó phải đi cùng với những chiến lược thay đổi chính sách và phân bổ nguồn lực trong ngành thủy sản./.
Quyền sống và quyền được tôn trọng của người nhiễm HIV/AIDS  (28/10/2011)
Lào giúp Việt Nam khắc phục hậu quả bão lũ  (28/10/2011)
Nga lại phóng thành công tên lửa đạn đạo Bulava  (28/10/2011)
Liên hợp quốc nhất trí tăng cường cuộc chiến chống cướp biển  (28/10/2011)
Việt Nam ủng hộ các chương trình của UNESCO  (28/10/2011)
- Chủ nghĩa thực dân số trong thời đại số và những vấn đề đặt ra
- Phương hướng, giải pháp nâng cao chất lượng công tác dân vận của Quân đội nhân dân Việt Nam, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn mới
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển đội ngũ nhà giáo và sự vận dụng của Đảng trong giai đoạn hiện nay
- Ngành y tế với công tác chăm sóc, bảo vệ và phát huy vai trò người cao tuổi trong giai đoạn hiện nay
- Quan điểm, chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về công tác tuyên truyền, vận động quần chúng nhân dân - Một số vấn đề đặt ra đối với việc vận dụng, phát triển trong kỷ nguyên mới của đất nước
-
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Cuộc chiến đấu bảo vệ Thành cổ Quảng Trị năm 1972 - khát vọng độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - Bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX -
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Chiến thắng Điện Biên Phủ - Bài học lịch sử và ý nghĩa đối với sự nghiệp đổi mới hiện nay -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Đổi mới tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị “tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả” theo tinh thần định hướng của Đồng chí GS, TS, Tổng Bí thư Tô Lâm