Kể từ khi dịch bắt đầu, Chính phủ đã nỗ lực rất lớn và nhanh chóng triển khai các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp, hộ gia đình và người lao động để chống chọi với các tác động do đứt gãy sản xuất và các biện pháp giãn xã hội. Theo đánh giá của các chuyên gia, chính sách của Chính phủ và các cấp, các ngành đối với người lao động, người sử dụng lao động bị ảnh hưởng dịch bệnh COVID-19 trong 2 năm vừa qua ngày càng kịp thời hơn, thiết thực hơn, thuận tiện hơn trước. Nếu so sánh với toàn bộ các chính sách hỗ trợ xã hội năm 2018, thì đây là những nỗ lực rất lớn của Chính phủ. Sự vào cuộc của các cấp các ngành khiến cho các gói hỗ trợ đến nhanh hơn các nhóm đối tượng. Sự huy động của xã hội cũng góp một phần rất quan trọng giảm nhẹ các tác động tiêu cực của COVID-19.

1. Tác động của dịch bệnh COVID-19 đến kinh tế, doanh nghiệp và thị trường lao động

Kể từ đầu năm 2020, Việt Nam, cùng với thế giới đã trải qua 4 làn sóng dịch bệnh COVID-19, trong đó, lần 4 với tổng số người bị mắc đến ngày 25-1-2022 với 2.166 triệu ca mắc và 36.884 ca tử vong, chiếm tỷ lệ 1.7% so với tổng ca nhiễm. Các tỉnh phía Nam bị ảnh hưởng nặng nề nhất, đặc biệt là Thành phố Hồ Chí Minh và 20 tỉnh lân cận.

Do tác động của dịch bệnh COVID-19, năm 2020, GDP chỉ tăng có có 2,91%, tiếp tục giảm xuống còn 2,58% trong năm 2021 (trong thời gian 2015-2020, tăng trưởng kinh tế Việt Nam luôn ở mức bình quân 6.8%/năm, đặc biệt năm 2019 tăng trên 7,2%).

  • Kết quả khảo sát doanh nghiệp của VCCI và WB (2020) cho thấy: 

Năm 2020, có khoảng 101.7 nghìn doanh nghiệp phải ngừng sản xuất, kinh doanh; doanh thu giảm 30%. Các doanh nghiệp bị ảnh hưởng nhiều là DN lớn, song mức độ phục hồi khó hơn là các doanh nghiệp nhỏ và vừa, các doanh nghiệp mới thành lập. Các ngành bị ảnh hưởng nhiều nhất là công nghiệp, cụ thể là công nghiệp chế tạo, vận tải, kho bãi, thong tin liên lạc, dịch vụ ăn uống và lưu trữ, giáo dục và đào tạo.

Tổng số lao động bị giảm khoảng 30%; khoảng 34% doanh nghiệp phải cắt giảm tiền lương; 34.5% doanh nghiệp cho lao động nghỉ không lương và 44.7% doanh nghiệp phải thu hẹp quy mô sản xuất, kinh doanh.

  • Kết quả khảo sát về lao động việc làm (GSO) quý II năm 2021 cho thấy:

Khoảng 42,7% số lao động cho biết bị ảnh hưởng của COVID-19 về việc làm; 17% người lao động phải giảm giờ làm, giãn việc hoặc nghỉ luân phiên; 14% doanh nghiệp hộ gia đình phải tạm nghỉ kinh doanh; 31% lao động bị giảm thu nhập; 2% bị thất nghiệp; 3% chuyển đổi việc làm sang làm việc online.

Các nhóm đối tượng bị ảnh hưởng nhiều nhất là phụ nữ, lao động không có kỹ năng, người có trình độ thấp, có thu nhập thấp, lao động trong khu vực thành thị, lao động tự do, lao động khu vực phi chính thức, lao động không có bảo hiểm xã hội, không có hợp đồng lao động. 

Tuy nhiên, dịch bệnh COVID-19 tiếp tục tác động nặng nề đến thị trường lao động Việt Nam trong quý III năm 2021. Cả nước có hơn 28,2 triệu người từ 15 tuổi trở lên chịu ảnh hưởng tiêu cực của đại dịch khiến họ bị mất việc làm, phải nghỉ giãn việc/nghỉ luân phiên, giảm giờ làm, giảm thu nhập… So với quý trước, số lao động chịu tác động xấu bởi dịch bệnh COVID-19 trong quý III tăng thêm 15,4 triệu người. Hầu hết những người bị ảnh hưởng nằm trong độ tuổi lao động, từ 25 đến 54 tuổi, chiếm 73,3% tổng số lao động chịu ảnh hưởng.

Đông Nam Bộ và đồng bằng sông Cửu Long là hai vùng bị ảnh hưởng nặng nề nhất (số người lao động ở hai vùng này bị tác động tiêu cực lần lượt là 59,1% và 44,7%); lao động khu vực thành thị chịu thiệt hại nhiều hơn so với khu vực nông thôn (có 46,2% lao động thành thị so với 32,4% lao động nông thôn).

Kết quả, lao động có việc làm trong quý III tiếp tục giảm sâu chưa từng thấy từ trước tới nay, giảm gần 2,6 triệu người so với quý trước và giảm 2,7 triệu người so với cùng kỳ năm trước. Số lượng lao động có việc làm quý III là 47,2 triệu người - mức thấp nhất trong nhiều năm qua.

Trên phạm vi toàn quốc, số người thất nghiệp trong độ tuổi lao động quý III là hơn 1,7 triệu người, tăng 532,2 nghìn người so với quý trước và tăng 449,6 nghìn người so với cùng kỳ năm trước. Đáng lo ngại, trong quý III, cả nước có gần 2,4 triệu (chiếm 19,6%) thanh niên từ 15-24 tuổi không có việc làm và không tham gia học tập, đào tạo, tăng 642 nghìn người so với cùng kỳ năm trước.

Sự sụt giảm nghiêm trọng về số người tham gia lực lượng lao động trong quý III làm tỷ lệ tham gia lực lượng lao động trong quý này xuống thấp nhất trong 10 năm trở lại đây, chỉ là 65,6%, tức giảm 2,9 điểm phần trăm so với quý trước và giảm 3,9 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm trước (thời kỳ 2010 - 2019, tỷ lệ tham gia lực lượng lao động luôn đạt trên 75%).

Dịch bệnh COVID-19 khiến cho thu nhập của người lao động bị tổn thương nặng nề. Thu nhập bình quân tháng của người lao động trong quý III là 5,2 triệu đồng, giảm 877 nghìn đồng so với quý trước và giảm 603 nghìn đồng so với cùng kỳ.

Thu nhập của người lao động vùng Đông Nam Bộ chịu tổn thương nặng nề nhất với mức thu nhập giảm sâu. So với quý trước và so với cùng kỳ, biến thể Delta đã cuốn đi khoảng một phần tư mức thu nhập bình quân tháng của người lao động vùng này (thu nhập bình quân của người lao động vùng này là 5,7 triệu đồng, giảm 2,4 triệu đồng, tương ứng 29,8% so với quý trước và giảm 1,9 triệu đồng, giảm tương ứng 24,9% so với cùng kỳ). Riêng thu nhập bình quân tháng của người lao động Thành phố Hồ Chí Minh chỉ là 5,8 triệu đồng, là mức thấp nhất trong nhiều năm trở lại đây.

2. Vai trò của Chính phủ trong hỗ trợ hộ gia đình và người lao động đối phó với dịch bệnh COVID-19

2.1. Chính phủ Việt Nam đã nhanh chóng xây dựng và thực hiện các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp, hộ gia đình và người lao động

Kể từ khi dịch bắt đầu, Chính phủ đã nỗ lực rất lớn và nhanh chóng triển khai các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp, hộ gia đình và người lao động để chống chọi với các tác động do đứt gãy sản xuất và các biện pháp giãn xã hội.

Đối với khu vực doanh nghiệp: Các chính sách bao gồm: (i) Miễn/giảm thuế và các khoản lệ phí (ii) kéo dài thời gian làm việc đối với các chuyên gia nước ngoài, các kỹ thuật viên và các đối tác nước ngoài của doanh nghiệp; (iii) thúc đẩy các hợp đồng đầu tư đã cam kết (iv) áp dụng các qui định giảm trừ/bãi miễn về các công trình xây dựng v) giảm các chi phí của doanh nghiệp khi tính thuế thu nhập doanh nghiệp …

Thực hiện các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp về an sinh xã hội với quy mô và độ bao phủ khá lớn (theo thiết kế).

 (i) Các chính sách hỗ trợ tiền mặt đối với doanh nghiệp nhằm kéo dài các khoản nợ, miễn trừ/giảm đóng thuế với tổng số tiền hỗ trợ dự kiến là 250 nghìn tỷ đồng;

(iii) Hỗ trợ tài chính để giảm thuế và phí về sử dụng đất đai và các khoản có liên quan (180 nghìn tỷ đồng);

(iv) Hỗ trợ doanh nghiệp trả lương cho lao động bị ngừng việc, tạm thời ngừng việc… với tổng giá trị 16 nghìn tỷ đồng;

ii) Thực hiện các chính sách trợ giúp xã hội đối với người lao động và các đối tượng yếu thế với tổng số tiền là 62 nghìn tỷ đồng (gói 1) (trong đó hỗ trợ trực tiếp bằng tiền mặt là 35.880 tỷ đồng để hỗ trợ cho 20 triệu người)([1])

(iii) Thực hiện chính sách hỗ trợ theo Nghị quyết số 68/NQ-CP: Tính đến hết ngày 15-11-2021, tổng kinh phí thực hiện Nghị quyết số 68/NQ-CP, Quyết định số 23 là 27,29 nghìn tỷ đồng; 27,63 triệu lượt người lao động và người sử dụng lao động được hỗ trợ.

Do những nỗ lực về y tế, Việt Nam đã dần dần kiểm soát được bệnh dịch, ngày 13-12-2021, Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội cũng đã ban hành Quyết định số 1405/QĐ-LĐTBXH, “Về chương trình hỗ trợ phục hồi và phát triển thị trường lao động” nhằm từng bước phục hồi và phát triển thị trường lao động hiệu quả, đáp ứng yêu cầu phục hồi và phát triển kinh tế, bảo đảm an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, hạn chế thấp nhất những tiêu cực từ dịch bệnh tới thị trường lao động, tiến tới xây dựng và hình thành thị trường lao động đồng bộ, hiện đại, linh hoạt, thống nhất, hội nhập nhằm thúc đẩy nhanh chuyển dịch cơ cấu lao động, phát triển nguồn nhân lực cho phát triển và chuyển dịch cơ cấu kinh tế của đất nước.

Nhiệm vụ chủ yếu:

1. Hỗ trợ người lao động quay trở lại thị trường và được bảo đảm an sinh xã hội thông qua các hình thức truyền thông, thông tin thị trường lao động; thực hiện chính sách hỗ trợ người lao động có thu nhập thấp các chi phí sinh hoạt tối thiểu về nhu yếu phẩm, thuê nhà trọ, điện nước, y tế bù đắp những khó khăn do tác động của dịch bệnh mang lại mà yên tâm làm việc; chính sách giảm lãi suất, bổ sung thêm nguồn vốn để hỗ trợ người lao động vay vốn từ Quỹ Quốc gia về việc làm tự tạo việc làm cho bản thân và cho những người lao động khác.

- Khuyến khích doanh nghiệp có chính sách hỗ trợ người lao động về tiền lương, tiền ăn ca, các chế độ bảo hiểm, phúc lợi xã hội khác để giữ chân người lao động.

- Thực hiện các giải pháp hỗ trợ thu hút người lao động ngoại tỉnh đến làm việc tại địa phương có các khu kinh tế, khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao

2. Hỗ trợ người sử dụng lao động phục hồi, phát triển sản xuất, kinh doanh tạo việc làm cho người lao động; Hỗ trợ chi phí tuyển dụng lao động thông qua Trung tâm Dịch vụ việc làm; khuyến khích doanh nghiệp hoạt động dịch vụ việc làm trên địa bàn giảm giá tư vấn, cung ứng lao động;

3. Giảm lãi suất, bổ sung thêm nguồn vốn vào Quỹ Quốc gia về việc làm để cho các hộ kinh doanh vay vốn phục hồi, phát triển sản xuất, kinh doanh tạo việc làm cho người lao động.

4. Tập trung đào tạo, nâng cao chất lượng lao động đáp ứng yêu cầu phục hồi và phát triển thị trường lao động phục vụ và phục hồi và phát triển kinh tế.

5. Hỗ trợ kết nối cung - cầu lao động

2.2. Kết quả thực hiện chính sách 

Theo thống kê chưa đầy đủ, kể từ đầu dịch đến cuối tháng 10-2021, có khoảng gần 64,8 triệu đối tượng (chủ doanh nghiệp, người lao động, hộ gia đình và lao động tự do) được hưởng các chính sách hỗ trợ của Chính phủ (chiếm đến trên 50% dân số), trong đó: 

Từ năm 2019 đến tháng 4-2020, có khoảng 14.3 triệu người được hưởng, với tổng chi phí khoảng 32.36 nghìn tỷ đồng.

Từ tháng 5 đến tháng 10-2021, do tác động nặng nề của COVID-19, tổng số đối tượng được hỗ trợ đạt khoảng 50,58 triệu người với tổng số tiền là 42,5 nghìn tỷ đồng. Đây là những nỗ lực rất lớn của Chính phủ, các chính sách hỗ trợ khẩn cấp có diện đối tượng hưởng thụ rộng nhất và nhanh nhất từ trước đến nay.

Biểu 1: Quy mô và kinh phí thực tế thực hiện các chính sách hỗ trợ của Chính phủ (tính toán sơ bộ)

 

Ghi chú

Tổng chi thực tế, nghìn tỷ đồng

% của GDP

Tổng số người được hưởng, triệu người

% tổng số dân

2018

Toàn bộ chính sách hỗ trợ

33,153

0,60%

48,23

50,9

2020

Một số chính sách khẩn cấp

32,36

0,51%

14,29

14,6

Đến 11/ 2021

42,5

0,55%

50,58

51,25

Nguồn: Tính toán của tác giả dựa trên một số số liệu của Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, Bộ Tài chính

Đáng chú ý là các chính sách cũng đã điều chỉnh nhanh, linh hoạt. Theo đánh giá của các chuyên gia, chính sách của Chính phủ và các cấp, các ngành đối với người lao động, người sử dụng lao động bị ảnh hưởng dịch bệnh COVID-19 trong 2 năm vừa qua được tóm gọn trong 3 từ “hơn”: ngày càng kịp thời hơn, thiết thực hơn, thuận tiện hơn trước”.

Nếu so sánh với toàn bộ các chính sách hỗ trợ xã hội năm 2018, thì đây là những nỗ lực rất lớn của Chính phủ: Năm 2018, theo tính toán sơ bộ, toàn bộ chính sách hỗ trợ đạt khoảng 33.53 nghìn tỷ đồng, chiếm 0.6% GDP, trong khi chỉ tính phần chi của Chính phủ cho riêng các chính sách hỗ trợ do tác động của COVID-19 đã chiếm 0.51% GDP (năm 2020) và 0.55% (năm 2021).

Sự vào cuộc của các cấp các ngành khiến cho các gói hỗ trợ đến nhanh hơn các nhóm đối tượng.

Sự huy động của xã hội cũng góp một phần rất quan trọng giảm nhẹ các tác động tiêu cực của COVID-19. 

2.3. Một số vấn đề của chính sách hỗ trợ đối với hộ gia đình, người lao động

a) Các vấn đề chung của thế giới

Theo báo cáo đánh giá của ILO và ESCAP (năm 2020), các chính sách hỗ trợ của các Chính phủ, đặc biệt là các nước đang phát triển, các nước nghèo trong dịch bệnh COVID-19 có những vấn đề sau đây:

Các chương trình/chính sách hỗ trợ khẩn cấp chỉ đến được số lượng nhỏ hộ gia đình/người lao động cần giúp đỡ; các hỗ trợ về tiền mặt có tác động hỗ trợ rất thấp đối với việc duy trì sinh kế của người dân đối phó với khủng hoảng và mức độ đáp ứng rất thấp đối với nhu cầu của các nhóm người dân và hộ gia đình khác nhau.

Rất nhiều các nhóm dân cư khó tiếp cận với nhóm chính sách hỗ trợ, bao gồm những nhóm lao động có thu nhập thấp, bị mất việc do doanh nghiệp đóng cửa hoặc các biện pháp giãn xã hội hoặc không đủ điều kiện để hưởng chính sách về bảo hiểm thất nghiệp khi bị mất việc. 

Có sự loại trừ đối với nhóm lao động di cư, nhóm lao động tự do, nhóm người yếu thế di tản… mặc dù nhóm này thường bị tác động nhiều nhất.

Có nhiều vấn đề trong thực hiện chính sách do các yêu cầu nghặt nghèo, các điều kiện để hưởng chính sách, do vậy, kể cả những người có đủ điều kiện hưởng cũng khó tiếp cận. Hệ thống và các thủ tục hành chính phiền phức, giải ngân chậm do việc thụ lý chính sách, kiểm tra và giải ngân chính sách…

b) Các vấn đề về các hỗ trợ chính sách của Chính phủ Việt Nam 

Các chính sách hỗ trợ của Việt Nam cũng gặp những vấn đề tương tự như quốc tế. Dịch bệnh COVID-19 đã chỉ ra những khoảng trống lớn về năng lực và hiệu quả của hệ thống quản lý lao động và hệ thống chính sách an sinh xã hội.

+ Đối với các gói chính sách hỗ trợ doanh nghiệp: Điều tra của WB và GSO (2020), cho thấy, tiếp cận của doanh nghiệp đến các chính sách hỗ trợ còn thấp và bằng chứng về tác động giải quyết việc làm đối với nhóm chính sách này chưa cao.

Đánh giá của doanh nghiệp, đặc biệt đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa đối với các chính sách hỗ trợ không cao: (i) khả năng tiếp cận của các doanh nghiệp đến các chính sách, đặc biệt là các chính sách lãi suất 0% (chỉ khoảng 17% doanh nghiệp có tiếp cận đến các chính sách hỗ trợ về tiền lương); (ii) các doanh nghiệp quy mô lớn và vừa dễ tiếp tận chính sách hơn là các doanh nghiệp nhỏ, các hộ gia đình; (iii) các doanh nghiệp hộ gia đình thường không đáp ứng các yêu cầu về chứng minh các điều kiện về tài chỉnh và sổ sách nên khó tiếp cận các chính sách; (iv) Thông tin về các gói hỗ trợ không đồng đều; các doanh nghiệp có thông tin tốt hơn thì có khả năng tiếp cận cao hơn; (v) Thời gian hỗ trợ và mức hỗ trợ phụ thuộc vào các gói chính sách khác nhau, thay đổi nhiều nên rất khó theo dõi và áp dụng; (vi) các văn bản hướng dẫn chính sách thường ra chậm, nên chậm thực hiện. 

+ Dịch bệnh COVID-19 cho thấy khoảng trống về an sinh xã hội bao phủ cho mọi người dân

Đa số các gói chính sách hỗ trợ của Chính phủ hướng đến khu vực doanh nghiệp chính thức, lao động làm việc trong khu vực chính thức (giảm đóng thuế doanh nghiệp, miễn/hoãn đóng bảo hiểm xã hội, hỗ trợ trả lương…).

Nhiều chính sách hỗ trợ người lao động trong doanh nghiệp bị ràng buộc bởi các điều kiện: tình trạng hoặc thời gian ký hợp đồng lao động; thời gian bị mất việc… các điều kiện khác của doanh nghiệp (mức giảm doanh thu của doanh nghiệp, đóng bảo hiểm xã hội của doanh nghiệp…).

Bên cạnh đó, các thủ tục hành chính, quá trình xét duyệt, phê chuẩn, giải ngân cũng khá lâu, dẫn đến tỷ lệ người lao động được hưởng khá thấp (đặc biệt so với thiết kế…).

Nhóm lao động khu vực phi chính thức, chiếm tỷ lệ cao hơn và bị tác động nhiều hơn do tác động của dịch song ít chính sách và mức độ tiếp cận chính sách rất khó khan; do điều kiện hưởng chính sách (danh mục ngành nghề được hưởng, thiếu thông tin về chính sách); quá tải của đội ngũ thực hiện chính sách do không nắm được danh sách đã ảnh hưởng đến khả năng và thời gian xét duyệt, đánh giá và giải ngân…). Hơn nữa mức hỗ trợ rất thấp, không giúp lao động phi chính thức cân bằng mức thiếu hụt do không được đi làm; các gói hỗ trợ không bao gồm hỗ trợ về các điều kiện sinh hoạt như nhà trẻ, nhà ở… khiến người lao động khó có thể chống chọi, đặc biệt là trong bối cản giãn xã hội lâu và trên diện rộng… Đối với người lao động không có khả năng chống chọi, phải trở về địa phương, các chính sách cũng hỗ trợ (bởi cả nơi đi và nơi đến) còn chậm, diện bao phủ và mức hỗ trợ thấp…)

+ COVID 19 cho thấy những vấn đề về quản lý lao động (cả 3 cấp: Vĩ mô, trung mô, cấp doanh nghiệp và của người lao động)

  • Đối với các cơ quan hoạch định chính sách nhà nước
  • Thiếu thông tin về thị trường lao động, về mức độ tác động và nhu cầu của các nhóm đối tượng cần hỗ trợ, đặc biệt là phạm vi và mức độ tác động của chính sách đến khu vực “phi chính thức”.
  • Thiết kế chính sách: Đa số chính sách chỉ tập trung vào khu vực chính thức; chưa đủ cơ sở thực tiễn để xây dựng các chính sách hỗ trợ: mục tiêu của chính sách thường gắn với các điều kiện doanh nghiệp… không chú ý đúng mức và không có thông tin là quy mô của đối tượng là bao nhiêu? Làm thế nào để chính sách đến với người dân nhanh nhất.
  • Chưa sử dụng được các điều kiện/cơ hội mới mà COVID-19 đã tạo ra và thúc đẩy (kết nối mạng, khai báo online, rà soát online và cấp phát thông qua hệ thống ngân hang, tài khoản…).
  • Hệ thống an sinh xã hội mỏng manh, không bao trùm, “để lại sau”, bỏ sót nhiều  đối tượng…
  • Hệ thống chính sách hỗ trợ thiếu đồng bộ (không có giải pháp kết hợp hỗ trợ người lao động phi chính thức về tiền mặt, hiện vật, nhà ở…).

- Đối với cơ quan quản lý lao động địa phương

  • Công tác phòng, chống dịch có lúc, có nơi còn bị động, lúng túng, thiếu nhất quán, nhất là giai đoạn đầu khi dịch bùng phát mạnh ở Thành phố Hồ Chí Minh và một số tỉnh phía Nam (nhận định của Chính phủ);
  • Còn bị động, lúng túng, trông chờ vào chỉ đạo của cấp trên trong thực hiện các chính sách hỗ trợ người lao động, đặc biệt là nhóm lao động tự do, lao động di cư;
  • Nguồn lực giữa các địa phương không đồng đều, không có điều kiện để nắm bắt nhu cầu của người lao động và doanh nghiệp để có các mức hỗ trợ phù hợp;
  • Phương tiện quản lý lạc hậu, thiếu nhân lực, còn có sự phân biệt đối xử giữa lao động địa phương và lao động nhập cư;
  • Hệ thống các trung tâm dịch vụ việc làm chưa sẵn sàng trong việc theo dõi biến động của thị trường lao động (chức năng rất quan trọng của hệ thống này), thực hiện các hỗ trợ chi trả cho nhóm lao động tự do…
  • Có nhiều biểu hiện “buông bỏ” người lao động, đặc biệt đối với nhóm lao động phải rời khỏi các thành phố lớn, các khu công nghiệp, họ không nhận được hỗ trợ thích đáng nào từ các địa phương nơi họ đã đóng góp bao công sức trong những năm qua.  
  • Đối với các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp nhỏ và vừa
  • Không mặn mà với các gói hỗ trợ, đặc biệt là nhóm doanh nghiệp nhỏ và hộ gia đình do điều kiện tiếp cận đến các gói “hỗ trợ” còn không phù hợp
  • Các doanh nghiệpu gặp khó khăn trong việc sử dụng các chính sách an sinh xã hội đối với người lao động, đặc biệt là các biện pháp giữ chân người lao động do nguồn lực không có và các biện pháp của Chính phủ không đồng bộ (ví dụ, kêu gọi lao động ngoại tỉnh đến làm việc trong khi các trường học không mở cửa; các hỗ trợ về tiền điện, nước không thực thi do người lao động không có khả năng thuê nhà).

-  Đối với người lao động

  • Hiện tượng “rơi tự do”: Khi việc làm tại các đơn vị, doanh nghiệp (khu vực chính thức) giảm, người lao động phải tìm kiếm việc làm ở khu vực phi chính thức (không có hợp đồng lao động), dẫn đến số người làm công việc tự do tăng lên. Theo Tổng cục Thống kê, cả nước hiện có hơn 20 triệu lao động làm việc trong khu vực kinh tế phi chính thức, chiếm hơn 57% số người tham gia lao động xã hội, cao nhất trong vòng 3 năm trở lại đây.
  • Khả năng “chống chịu” rất kém, “điều kiện sống và thu nhập thấp”, không có dự trữ cho các cú sốc kéo dài và trên diện rộng.
  • Đa số lao động làm việc trong khu vực phi chính thức, lao động di cư đến các khu công nghiệp, các thành phố lớn không tham gia hệ thống an sinh xã hội chính thức (bắt buộc lẫn tự nguyện), không được bảo vệ bởi các chính sách an sinh xã hội (bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, chế độ ốm đau, thai sản...) khi có biến động về thị trường lao động và cũng không thể hưởng thụ các chính sách hỗ trợ của Nhà nước.
  • Thiếu thông tin về hệ thống chính sách hỗ trợ.
  • Nếu có đủ điều kiện, cũng khó tiếp cận chính sách chính sách do các chính sách thường ra chậm và nhiều điều kiện ngặt nghèo để hưởng thụ…

3. Khuyến nghị về các chính sách kinh tế và thị trường lao động trong thời gian tới

Theo nhận định của Chính phủ, năm 2021, dự kiến có 5/12 chỉ tiêu kinh tế - xã hội chủ yếu chưa đạt mục tiêu. Kinh tế vĩ mô còn tiềm ẩn rủi ro; sức ép lạm phát tăng. Sức chống chịu của nền kinh tế suy giảm mạnh; không ít doanh nghiệp phải ngừng hoạt động, thậm chí bị giải thể, phá sản. Khu vực dịch vụ gặp khó khăn nghiêm trọng, đặc biệt là du lịch, lưu trú, ăn uống, vận tải hành khách.

Lao động, việc làm bị ảnh hưởng nặng nề, số lượng người lao động tạm ngừng, thiếu, mất việc làm tiếp tục tăng. Đời sống một bộ phận người dân gặp nhiều khó khăn. Dịch bệnh không chỉ tác động trong ngắn hạn, mà còn trong dài hạn đến sức khỏe, tâm lý của người dân, nảy sinh nhiều vấn đề xã hội phức tạp.

Về phương hướng trong thời gian tới, báo cáo của Chính phủ nhấn mạnh, năm 2022 là năm có ý nghĩa quan trọng, tạo nền tảng thực hiện các mục tiêu của Kế hoạch 5 năm 2021 - 2025. Dự báo tình hình quốc tế, trong nước có những thuận lợi, cơ hội và khó khăn, thách thức đan xen, nhưng khó khăn, thách thức nhiều hơn. Dịch bệnh COVID-19 có thể phức tạp, nguy hiểm hơn với sự xuất hiện của các biến chủng mới.

Trong nước, kinh nghiệm, năng lực, khả năng ứng phó dịch bệnh tiếp tục được nâng lên, nhưng sức chống chịu và nguồn lực của Nhà nước, doanh nghiệp và người dân giảm sút. Nguy cơ chậm phục hồi kinh tế, suy giảm tăng trưởng vẫn còn tiềm ẩn nếu không kiểm soát được dịch bệnh một cách cơ bản để mở cửa trở lại nền kinh tế; rủi ro lạm phát gia tăng; thiên tai, biến đổi khí hậu là nguy cơ luôn tiềm ẩn.

Quán triệt theo phương châm thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát có hiệu quả dịch bệnh COVID-19, trong đó, tập trung ưu tiên nguồn lực, thực hiện hiệu quả Chương trình phòng, chống dịch bệnh COVID-19 và Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội. Các bộ, cơ quan, địa phương tiếp tục đổi mới, chủ động, nỗ lực phấn đấu hơn nữa, quyết liệt hành động, có trọng tâm, trọng điểm, hiệu quả.

3.1 Cần có những chính sách phù hợp với các giai đoạn đối phó với đại dịch

Tương tự như trong nước, theo ILO, dịch bệnh COVID-19 mặc dù đang được kiểm soát, song vẫn chứa đựng những yếu tố bất thường, khó dự đoán về quy mô và phạm vi tác động; kinh tế và thị trường lao động vừa qua đã bị tác động rất nặng nề, nên phải có những giải pháp quyết liệt hơn. Do vậy, theo khuyến cáo của ILO, các nước cần chuẩn bị song song 3 giai đoạn chính sách:

- Giai đoạn khẩn cấp (Emerrgency): đối phó với sự lan rộng và nhanh của COVID-19 và các tác hại của nó đối với sức khỏe, kinh tế và an sinh xã hội.

Cần nhận thức rằng, ưu tiên cho sức khỏe là hoàn toàn chính đáng, song không phải trong y tế mới có các chỉ số sinh tồn, mà kinh tế và thị trường lao động cũng có những chỉ số sinh tồn (cần việc làm, thu nhập và các biện pháp an sinh xã hội tối thiểu), nên các giải pháp đối phó phải cân bằng hơn và phải có các biện pháp giảm thiểu tác động tiêu cực đối với kinh tế và thị trường lao động. 

- Giai đoạn thoát dần ra khỏi đại dịch (existing)

Các tác động của dịch bệnh COVID-19 vẫn rất lâu dài và sâu sắc, do vậy, khi đã kiểm soát được dịch, và chuyển sang giai đoạn “sống chung”, thì những chính sách cần tiếp tục duy trì để hỗ trợ cho các thị trường phục hồi, chữa trị và nhanh chóng thoát khỏi cuộc khủng hoảng.

- Giai đoạn hoàn toàn phục hồi, trở lại bình thường mới (full recovery/back to new normal)

Dịch bệnh COVID-19, tuy để lại các hậu quả nặng nề, song lại tạo điều kiện thúc đẩy việc ứng dụng các thành tựu của cách mạng công nghiệp lần thứ tư trong quá trình triển khai áp dụng các chính sách, mở ra các cơ hội mới cho tăng trưởng kinh tế và các cải cách xã hội. Do vậy, các nước cần nhanh chóng xây dựng các chiến lược về phát triển kinh tế và thị trường lao động để các thị trường phát triển nhanh, tận dụng các cơ hội mới. Trong giai đoạn này, cần rất nhiều nguồn lực về tài chính, về con người và thực hiện những cải cách chính sách và cải cách hành chính. 

Nếu theo cách phân chia này thì Việt Nam ở giai đoạn 2, do vậy, cần có giải pháp trong ngắn hạn (tập trung cao hơn vào các chính sách chữa chạy và ra khỏi khủng hoảng) và các nhóm chính sách trong dài hạn (phục hồi và trở lại bình thưởng mới).

3.2 Nhóm chính sách trong ngắn hạn

Theo khuyến nghị của ILO, WB và các tổ chức quốc tế, các ý kiến của cộng đồng doanh nghiệp và người lao động, trong giai đoạn ra khỏi này cần phải có hệ thống chính sách hỗ trợ “cấp cứu” rộng hơn và hiệu quả hơn. Cụ thể như sau:

a) Các chính sách cần bình đẳng và hiệu quả hơn đối với các khu vực kinh tế

(i) Tăng thời gian áp dụng các gói chính sách hỗ trợ cho doanh nghiệp, hộ gia đình và người lao động.

(ii) Thông tin tốt hơn về các gói chính sách.

(iii) Tập trung vào khâu tổ chức thực hiện chính sách: tăng cường tiếp cận chính sách đối với các nhóm doanh nghiệp và người lao động yếu thế thông qua việc giảm bớt các yêu cầu, điều kiện hưởng thụ chính sách (đặc biệt là các chính sách hỗ trợ tiền mặt).

b) Mở rộng độ bao phủ của các chính sách hỗ trợ  

(i) Tích cực tạo nguồn và xây dựng các chính sách hỗ trợ cho vay tín dụng đối với các doanh nghiệp để trả lương cho người lao động, duy trì việc làm cho người lao động; chuyển đổi hình thức việc làm và thời gian làm việc phù hợp;

(ii) Mở rộng diện hỗ trợ an sinh xã hội ở mức tối thiểu

Đối với người lao động: cần loại bỏ càng nhiều càng tốt các quy định về điều kiện hưởng ràng buộc với doanh nghiệp (mức độ giảm doanh thu, ngành, nghề kinh doanh, mức độ tham gia bảo hiểm xã hội, thời gian thất nghiệp…), gắn với mức độ tác động đối với người lao động và gia đình họ;

Cần ưu tiên hơn trong việc hỗ trợ lao động khu vực phi chính thức, lao động tự do, lao động nghèo, lao động quay trở về quê hương, lao động không có chuyên môn kỹ thuật… Các hỗ trợ cần liên tục trong thời gian cho đến khi kết thúc COVID-19 (theo một kế hoạch giảm dần…); Các hỗ trợ này cần phải tạo nền tảng để xây dựng kế hoạch hỗ trợ đối với toàn dân/một vùng khi có những cú shock về thiên nhiên, kinh tế và xã hội như COVID-19.

Cần phải giảm thiểu các thủ tục hành chính khi tiếp cận, xét duyệt đối tượng thụ hưởng; giảm tối đa các điều kiện về khu vực kinh tế, ngành. nghề của người lao động; nâng cao mức hỗ trợ; thực hiện chi trả không tiền mặt đối với các hỗ trợ; cần áp dụng các nền tăng công nghệ thông minh và số để kiểm soát mức độ hưởng thụ và tác động đến khả năng phục hồi của người lao động, hộ gia đình…

Các chính sách hỗ trợ đối với lao động di cư, lao động hồi hương cần bổ sung vào hỗ trợ các điều kiện sinh sống (nhà cửa, điện, nước, học hành, chăm sóc con cái…) và cả các chi phí để người lao động chi phí để họ quay trở lại nơi làm việc.

c) Thiết kế và sử dụng khẩn cấp các gói hỗ trợ về thị trường lao động

Kinh nghiệm thế giới cho thấy, trong giai đoạn hậu COVID-19, số người lao động trở lại nơi làm việc cũ chỉ đạt tới 50%. Đặc biệt nhiều hình thức việc làm mới xuất hiện do sử dụng công nghệ thông minh và các ứng dụng của công nghệ mới (vệc làm online, tại nhà, bán thời gian, việc làm linh hoạt…).

Do vậy, cần có các chính sách hỗ trợ về tài chính, thay đổi về quan niệm việc làm, khu vực làm việc, thời gian làm việc, các điều kiện về đóng, hướng các chính sách an sinh xã hội, thu nhập…, để họ có thể có các cơ hội kiếm thu nhập tạm thời, ngắn hạn… trong khi chờ đợi các cơ hội khác tốt hơn.

Tại các địa phương, cần chủ động áp dựng chính sách hỗ trợ việc làm như:

  • Việc làm công (thế giới gọi là food for work program), đã bổ sung vào Luật Việc làm năm 2013, song chưa triển khai áp dụng. Đây là cơ hội tốt để áp dụng các chính sách hỗ trợ việc làm bảo đảm tối thiểu cho lao động bị mất việc tạm thời hoặc chưa có cơ hội tham gia thị trường lao động; 
  • Sử dụng nguồn vốn vay từ chương trình “Việc làm và giảm nghèo” để hỗ trợ cho các dự án nhỏ, dự án khởi nghiệp của người lao động. Các chương trình này gắn với những cơ hội để tận dụng lao động cho phát triển kinh tế địa phương;
  • Tăng cường vốn từ các chương trình đào tạo nghề cho lao động nông thôn để hỗ trợ đào tạo lại, đào tạo chuyển nghề cho người lao động;
  • Kết nối thị trường lao động giữa các địa phương để bảo đảm đáp ứng cung - cầu lao động giữa các địa phương: Quan trọng là tổng kiểm kê về nhu cầu lao động và nhu cầu chuyển đổi việc làm để có các chính sách hỗ trợ phù hợp. 

3.3. Nhóm chính sách phát triển kinh tế và thị trường lao động trong tương lai

a) Tập trung các giải pháp tận dụng các cơ hội mới để phát triển kinh tế và phục hồi kinh tế

Theo khuyến cáo của WB, Việt Nam cần xây dựng chiến lược về phát triển thị trường lao động đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế trong thời kỳ mới.   

Mặc dù vẫn còn nhiều khó khăn, song những cơ hội phát triển về kinh tế sau dịch bệnh COVID-19 là rất lớn; Việt Nam có nhiều lợi thế và do vậy cần phải nhanh chóng nắm bắt các cơ hội này và thị trường lao động cũng cần phải có những cải cách căn bản để đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế. 

Trong giai đoạn này, các nỗ lực gồm 2 phần: (i) tái thiết nền kinh tế và thị trường lao động; (ii) thúc đẩy phát triển kinh tế và thị trường lao động đáp ứng các mục tiêu và cơ hội mới.

Điều tra doanh nghiệp (2020) cũng cho thấy, các doanh nghiệp mong muốn được có các chính sách hỗ trợ mang tính dài hơn hơn và tốt hơn để họ có thể nắm bắt các cơ hội mới tốt hơn.

* Về cơ hội kinh tế

Theo WB, dịch bệnh COVID-19 cũng mở ra nhiều các cơ hội để Việt Nam tham gia nhanh hơn và sâu hơn vào chuỗi sản xuất toàn cầu (WB đánh giá là Việt Nam có khả năng phục hồi tốt hơn do tăng trưởng kinh tế cao hơn, mức độ ứng dụng công nghệ mới chuyển đổi số tốt hơn và quyết tâm của Chính phủ trong việc đẩy nhanh các mô hình kinh tế mới, như kinh tế số, kinh tế tuần hoàn, kinh tế xanh…); một số ngành nghề có vị trí cao (gạo, các sản phẩm chế biến và điện tử…).

Bên cạnh đó, với những hiệp định FTA thế hệ mới như là CPTPP và EVFTA mà Việt Nam hiện đang tham gia, thời cơ cho Việt Nam thực hiện tốt hơn các cam kết (tăng tỷ lệ nội địa hóa hàng hóa…, kêu gọi tăng cường đầu tư của các đối tác lớn như Nhật Bản, Mỹ, châu Âu, Ô-xtrây-li-a... vào Việt Nam). Việt Nam sẽ có cơ hội tốt hơn nếu Chính phủ có thể có những mục tiêu rõ ràng và các giải pháp hiệu quả để thực hiện các mục tiêu này... Đồng thời, Việt Nam sẽ có điều kiện để cải thiện môi trường đầu tư đối với các nhóm ngành, nghề “động lực” trong thời gian tới; tăng cường các tiêu chuẩn lao động và phúc lợi cho người lao động.

Tuy nhiên, WB cũng dự đoán các nút thắt phát triển của Việt Nam truyền thống (nguồn nhân lực kém, kết cấu hạ tầng và quản trị nhà nước chưa tốt) vẫn là những cản trở lớn cho phát triển trong tương lai.

Về kinh tế: WB cũng cho rằng, cần phải tăng cường hiệu quả đầu tư công để phụ hồi và thúc đẩy thị trường nội địa và tăng cường lien kết thị trường nội địa và thị trường quốc tế; giữa các doanh nghiệp và người tiêu dùng.

Các bộ/ngành cần chủ động tư vấn cho Chính phủ để xây dựng chiến lược “hỗ trợ các doanh nghiệp một cách hiệu quả và phù hợp hơn” đến 2025, trong đó nhóm doanh nghiệp cần phân biệt: (i) Nhóm ngành, nghề/ doanh nghiệp tận dụng các cơ hội mới/đầu tầu cho phát triển; (ii) nhóm doanh nghiệp bị thiệt hại nặng nề nhất về quy mô và thời gian phục hồi do tác dụng của dịch bệnh COVID-19.

Bên cạnh đó, các bộ, ngành cũng cần phải xây dựng chiến lược phát triển doanh nghiệp công nghiệp và dịch vụ hiện đại để nền kinh tế thoát khỏi tình trạng lạc hậu và manh mún, phụ thuộc vào nguồn cung nước ngoài, giảm thiểu số việc làm giản đơn, năng suất thấp và kỹ năng thấp.

Trong khi các giải pháp ngắn hạn như giảm thuế, phí, miễn/giảm các nghĩa vụ đóng/nợ của doanh nghiệp và người lao động đòi hỏi nhiều nguồn lực của Chính phủ và không bị giới hạn, thì giai đoạn phục hồi đòi hỏi Chính phủ phải cải cách mạnh và có chất lượng về quản lý nhà nước, quản lý tài chính để tạo nhiều dư địa chính sách cho doanh nghiệp phát triển (các cải cách đã chứng minh hiệu quả tốt trong trong thời gian qua).

Bên cạnh đó, Chính phủ cần cải thiện môi trường chính sách, tăng cường hiệu quả thực hiện chính sách hỗ trợ cho doanh nghiệp bị tác động nặng nề của COVID-19, đặc biệt là hỗ trợ tài chính, hỗ trợ đào tạo và đào tạo lại, đào tạo mới nguồn nhân lực để đáp ứng chuyển đổi kinh tế thành công. 

b) Cần phải có cải cách cơ bản và hiệu quả các chính sách về thị trường lao động để tạo môi trường phục hồi và phát triển thị trường lao động, đáp ứng cao nhất nhu cầu phát triển kinh tế

Thúc đẩy tái tạo việc làm, chuyển dịch cơ cấu việc làm và tạo việc làm mới là nhiệm vụ trọng tâm (tập trung vào phụ hồi việc làm tại các ngành bị ảnh hưởng nặng nề, nhiều lao động bị mất việc, các thị trường lao động bị ảnh hưởng do lao động di chuyển…) và khai thác các cơ hội việc làm mới trong các nhóm ngành, nghề mũi nhọn, ngành nghề mới… Trong bối cảnh này, các chính sách về thị trường lao động chủ động phục hồi hậu COVID-19 (cho vay vốn, đào tạo nghề, thông tin thị trường lao động có vai trò rất quan trọng).

Tuy nhiên, để thích ứng lâu dài, các chính sách hỗ trợ người lao động sẽ dần chuyển từ hỗ trợ tiền mặt không điều kiện sang hỗ trợ có điều kiện đối với người lao động trong các ngành bị tác động nhiều; mở rộng đối tượng thụ hưởng các chính sách hỗ trợ, bao gồm các cơ hội, hình thức việc làm mới do “COVID-19” mang lại (việt làm trên mạng, việc làm linh hoạt, ứng dụng công nghệ số, công nghệ thông minh…). 

Sử dụng các gói tín dụng kết hợp với đào tạo để hỗ trợ phát triển các doanh nghiệp nhỏ và doanh nghiệp hộ gia đình gắn với phát triển các thị trường lao động địa phương, thị trường lao động có CMKT cao.

Ứng dụng các công nghệ thông minh và công nghệ số vào cung cấp dịch vụ trợ giúp xã hội. Bảo đảm kiểm soát được đối tượng thụ hưởng dịch vụ trợ giúp xã hội (hiện tại và tương lai nếu cần).

c) Nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu kinh tế 

Đào tạo nguồn nhân lực trong giai đoạn phục hồi đóng vai trò rất quan trọng. Trước nhất là do nhu cầu về đào tạo lại, đào tạo chuyển đổi đối với nhóm lao động có CMKT hiện hành và đào tạo cho lao động có những kỹ năng mới, đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế số, công nghệp thông minh.

Bên cạnh đó, COVID-19 cũng chỉ ra những cơ hội về đổi mới hệ thống đào tạo, bao gồm cả mục tiêu, hình thức đào tạo.

Theo khuyến cáo của WB, hệ thống đào tạo của Việt Nam cần phải chuyển từ định hướng “cung” (định hướng theo đầu vào như số học sinh tuyển, nhập học…), sang định hướng “cầu”, lấy các chỉ tiêu kết quả đầu ra (tỷ lệ sinh viên có việc làm; mức độ đáp ứng kỹ năng đối với doanh nghiệp…) làm căn cứ để xây dựng các chương trình đào tạo và đánh giá hiệu quả đào tạo.

Hệ thống đào tạo cần phải đáp ứng 2 mục tiêu: (i) Hỗ trợ đào tạo lại và đào tạo chuyển đổi cho lao động để tái hòa nhập thị trường lao động hoặc chuyển sang các ngành nghề khác. Trong nhóm này cần phải đặc biệt chú ý đến nhóm lao động rời khỏi thị trường lao động do tác động của COVID-19, các nhóm lao động bị dôi dư do doanh nghiệp chuyển đổi kinh doanh; (ii) Hỗ trợ các ngành mũi nhọn, công nghệ cao, hiện đại phát triển có đủ nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu phát triển với các kỹ năng mềm, kỹ năng số…

Về hình thức đào tạo: Cần kết hợp đào tạo trực tuyến, mô phỏng, với các hình thức đào tạo truyền thống phù hợp với mục tiêu đào tạo, đối tượng đào tạo, góp phần giảm chi phí đào tạo, mở rộng cơ hội đào tạo cho nhiều nhóm lao động;

 d) Hoàn thiện, nâng cao chất lượng của hệ thống thông tin thị trường lao động, hệ thống trung tâm dịch vụ việc làm

Theo WB, trong bối cảnh công nghệ mới và nền tảng công nghệ số, hệ thống thông tin thị trường lao động và các trung tâm dịch vụ việc làm ngày càng có vai trò lớn trong việc kết nối thị trường lao động.

+ Xây dựng hệ thống thông tin thị trường lao động trên nền tảng công nghệ mới, kỹ thuật mới

Hệ thống thông tin thị trường lao động hiện tại đang bị chia cắt, hạ tầng cơ sở thu thập, phân tích, cung cấp thông tin chưa đáp ứng nhu cầu của các doanh nghiệp lẫn quản lý lao động, do vậy cần phải hoàn thiện hệ thống thông tin và kết nối thông tin dựa trên nền tảng công nghệ hiện đại.

Hệ thống thông tin thị trường lao động cần phải cung cấp các thông tin về nhu cầu thị trường lao động đối với các việc làm, kỹ năng và các tiêu chuẩn; hỗ trợ người tìm việc có cơ hội tìm việc làm và đáp ứng yêu cầu việc làm trên phạm vi cả nước;  

Tăng cường kết nối việc làm và giới thiệu việc làm trực tuyến.

Đổi mới việc thu thập thông tin thị trường lao động, thông qua sử dụng khảo sát trực tuyến, cập nhập trực tuyển... để cung cấp thông tin thị trường lao động.

+ Đổi mới hoạt động của của các trung tâm dịch vụ việc làm:

Mở rộng các dịch vụ cung cấp, tăng cường hỗ trợ đào tạo với các cơ hội việc làm;

Thực hiện kết nối qua ứng dụng số, kể cả các hoạt động về phỏng vấn và tư vấn… 

Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong hệ thống

e) Hoàn thiện hệ thống an sinh xã hội giảm khoảng cách về độ bao phủ, quy mô và sự phù hợp của hệ thống bảo đảm xã hội

Theo ILO, đại dịch COVID-19 đã cho thấy phát triển kinh tế cần theo hướng “chăm sóc tốt hơn” đối với mọi người dân (care economy). COVID-19 đã cho thấy sự bất bình đẳng về an sinh xã hội trên phạm vi toàn cầu và trong mỗi quốc gia. Người yếu thế là những người bị ảnh hưởng nhiều nhất (lao động tự do, lao động di cư, lao động nữ, không có trình độ, lao động trẻ…) những người này có hạn chế về khả năng tiếp cận đến hệ thống an sinh xã hội chính thức (bao gồm cả chính sách thị trường lao động, trợ giúp xã hội và bảo hiểm xã hội).

+ An sinh xã hội có vai trò rất quan trọng trong việc giải quyết các khủng hoảng về kinh tế, sức khỏe và xã hội.

Các giải pháp hỗ trợ khẩn cấp đối với doanh nghiệp, hộ gia đình và người lao động có vai trò rất quan trọng trong giai đoạn “cấp cứu”, tuy nhiên về lâu dài, thì các giải pháp cần phải chuyển thành hệ thống bảo đảm tốt hơn cho người dân, mọi người lao động. 

Một hệ thống an sinh xã hội dựa vào đóng góp và không đóng góp sẽ tạo cơ sở bảo đảm không ai bị ở lại phía sau. Do vậy, ILO khuyến cáo các giải pháp sau:

+ Xây dựng sàn an sinh xã hội cho mọi người dân([2])

Trong bối cảnh các cú sốc có quy mô rộng như COVID-19, sàn an sinh xã hội có vai trò rất quan trọng trong việc xây dựng một hệ thống an sinh xã hội tốt cho mọi người dân, tạo điều kiện để đạt được mục tiêu tăng trưởng kinh tế bền vững hơn và công bằng hơn, bao gồm các hoạt động sau đây:

  • Mở rộng hệ thống bảo hiểm y tế và chăm sóc y tế cơ bản cho mọi người dân
  • Xây dựng hệ thống hệ thống trợ giúp xã hội cơ bản, có khả năng tiếp cận/bao trùm toàn bộ dân cư là cần thiết đối với các hộ gia đình nghèo nhất, lao động phi chính thức.
  • Xây dựng các chính sách phúc lợi dựa trên không đóng góp (hỗ trợ trực tiếp của nhà nước), là cần thiết trong giai đoạn ngắn hạn và là yếu tốt quan trọng trong việc mở rộng an sinh xã hội.

+ Phát triển hệ thống an sinh xã hội có đóng góp, bao phủ toàn dân

COVID-19, cũng cho thấy sự cần thiết phải mở rộng hệ thống an sinh xã hội dựa vào đóng góp nhằm bảo đảm thu nhập thay thế cho người lao động khi bị mất việc làm hoặc ốm đau và có khả năng phản ứng với các cú sốc trong tương lai. Do vậy, theo ILO, cần phải tiến hành chiến dịch lớn để mở rộng bảo hiểm xã hội, đặc biệt là mở rộng bảo hiểm xã hội bắt buộc đến mọi người lao động trong khu vực phi chính thức.

Trong hệ thống chính sách an sinh xã hội, tham gia bảo hiểm là trụ cột thứ 2, song là trụ cột chính, có chức năng giảm thiểu rủi ro, giúp cho người dân chủ động bảo đảm bù đắp hoặc thay thế một phần thu nhập khi gặp rủi ro (đau ốm, mất việc hoặc mất khả năng lao động vĩnh viễn khi tuổi già), giảm sức ép đối với hệ thống phúc lợi xã hội. Tham gia bảo hiểm dựa trên nguyên tắc đóng - hưởng và chia sẻ, do vậy, là trụ cột quan trọng nhằm tăng diện bao phủ của chính sách bảo hiểm đối với người dân, công cụ quan trọng để đạt được các mục tiêu bao phủ toàn dân của hệ thống an sinh xã hội.

Theo kinh nghiệm của các nước đang tiến hành cải cách bảo hiểm xã hội, các nguyên tắc mở rộng độ bao phủ của bảo hiểm xã hội, gồm:

  1. Thứ nhất là “toàn dân”: chính sách bảo hiểm xã hội cần hướng đến bao phủ toàn bộ dân số trong độ tuổi lao động nhằm bảo đảm quyền an sinh cơ bản cho mọi người lao động.
  2. Thứ hai là bảo đảm “công bằng”: chính sách bảo hiểm xã hội cần bảo đảm các nhóm đối tượng tham gia và được hưởng lợi như nhau và có những giải pháp thích hợp đối với nhóm đối tượng đặc thù.
  3. Thứ ba là “bảo đảm công khai, minh bạch”: chính sách bảo hiểm xã hội phải bảo đảm tính công khai, minh bạch về chính sách, chế độ, quyền lợi và trách nhiệm của các chủ thể thuộc diện điều chỉnh của chính sách. 
  4. Thứ tư là “bảo đảm bền vững về tài chính”: Phát triển bảo hiểm xã hội phải bảo đảm tính bền vững của Quỹ Bảo hiểm xã hội.
  5. Thứ năm là “bảo đảm vai trò của Nhà nước đối với bảo hiểm xã hội, bảo đảm cho mọi người dân được tham gia hệ thống bảo hiểm xã hội.

+  Các biện pháp mở rộng độ bao phủ của Bảo hiểm xã hội

- Chính phủ tài trợ các chương trình bảo hiểm xã hội từ nguồn thuế của Nhà nước.

Tại rất nhiều nước, Chính phủ đã thực hiện các hỗ trợ để người dân tham gia bảo hiểm xã hội (đặc biệt là người dân khả năng tham gia bảo hiểm xã hội bị hạn chế) từ với nguồn tài chính từ ngân sách nhà nước (đóng thuế của toàn dân).

Các hỗ trợ này được thực hiện đối với cả “đầu vào” (hỗ trợ sự tham gia) và cả đầu ra (hỗ trợ phần hưởng lợi). Chính sách hỗ trợ “đầu vào” được quy định đối với một số nhóm người lao động có hoàn cảnh đặc biệt, không đủ khả năng tham gia đóng 100% theo quy định nhằm mục tiêu bao phủ toàn dân; trong khi chính sách hỗ trợ “đầu ra” nhằm tăng mức hưởng lợi, dựa vào quyền lợi của người hưởng thụ (ví dụ, họ phải có mức thu nhập tối thiểu đủ sống, song mức hưu trí quá thấp…).

Các trường hợp về hưu trí xã hội (hưởng hưu không cần đóng góp), được coi là trường hợp ngoại lệ, song không khuyến khích nhiều do không thể đạt được độ bao phủ toàn dân (theo nghĩa có nghĩa vụ tham gia) và không bền vững về tài chính và xã hội (các mức hưởng rất thấp).

- Thực hiện nghĩa vụ bắt buộc mọi người chủ sử dụng lao động trong khu vực chính thức đóng bảo hiểm xã hội cho người lao động.

Đây là công cụ chính sách chủ yếu để mở rộng độ bao phủ và phụ thuộc rất nhiều vào mức độ tuân thủ. Việc tích hợp nghĩa vụ đóng thuế doanh nghiệp với đóng bảo hiểm xã hội cho người lao động là một trong những giải pháp.

- Xây dựng chính sách bảo hiểm xã hội tự nguyện với mức đóng tối thiểu (đầu vào) và hỗ trợ về mức hưởng (đầu ra) để mọi người lao động có thể tham gia chính sách bảo hiểm xã hội.

Trong một số nước, do tỷ lệ người lao động trong khu vực kinh tế phi chính thức và nông nghiệp còn cao, chính phủ xây dựng một số chính sách tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện theo hướng quy định mức tối thiểu tham gia và hỗ trợ về mức hưởng. Trung quốc là một ví dụ cho sự thành công của chính sách này.  

+ Các giải pháp đối với Việt Nam

  • Về định hướng     

Thứ nhất, hướng tới bảo hiểm xã hội toàn dân: Đây là một hướng đi đúng đắn, hợp với xu thế thế giới và quyền được bảo đảm trong luật pháp Việt Nam nói chung và an sinh xã hội nói riêng. Nhà nước cần nghiên cứu và ban hành khung khổ pháp luật và các điều kiện cần thiết để mở rộng bao phủ của hệ thống bảo hiểm xã hội đến mọi người lao động.

Thứ hai, dựa vào cam kết của chính phủ: để mở rộng bao phủ bảo hiểm xã hội thì sự ủng hộ mạnh mẽ của Nhà nước và một sự cam kết rõ ràng trong việc nâng cao năng lực quản lý trong lĩnh vực này chiếm một vị trí quan trọng.

Thứ ba, hướng tới khu vực phi chính thức và lao động tự do trong khu vực nông thôn: trong bối cảnh kinh tế biến động, khu vực phi chính thức, nông nghiệp và di cư lao động đang có xu hướng gia tăng, thiếu việc làm và thu nhập không ổn định gia tăng, khả năng tham gia của các nhóm lao động này vào hệ thống bảo hiểm xã hội càng khó khăn.

Bên cạnh đó, do tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và ứng dụng công nghệ mới, xuất hiện các hình thức quan hệ lao động mới, cần phải tiếp tục hoàn thiện khuôn khổ luật pháp, đổi mới thiết kế, hoàn thiện phương thức tham gia bảo hiểm xã hội cho phù hợp với nhóm lao động này để mở rộng sự tham gia của những lao động này có hiệu quả.

  • Về chính sách bảo đảm cho mọi người dân tham gia bảo hiểm xã hội ở mức tối thiểu để đạt được bảo hiểm xã hội toàn dân 

Hệ thống bảo hiểm xã hội cần thiết kế từ mô hình “đa trụ”, sang mô hình “đa tầng”, hay nói cách khác, bảo hiểm xã hội cần phải chuyển từ hệ thống chính sách thiết kế theo nhóm đối tượng, sang chính sách với các nguyên lý thiết kế khác nhau đối với mỗi tầng.

Theo đề xuất của Bộ Lao động, Thương Binh và Xã hội trong dự thảo Đề án Cải cách chính sách bảo hiểm xã hội, bảo hiểm xã hội sẽ được thiết kế gồm 3 tầng cơ bản: Tầng 1 (thấp nhất) là phổ cập toàn dân, dựa trên sự hỗ trợ của Nhà nước đối với các đối tượng yếu thế; Tầng thứ hai là bảo hiểm xã hội bắt buộc, giống như quy định hiện hành. Tầng thứ ba là bảo hiểm tự nguyện, người lao động đóng cao hưởng cao.

Định hướng này hoàn toàn đúng. Tuy nhiên, về nguyên tắc thiết kế thì còn một số vấn đề.

Nếu “tầng 1” dựa hoàn toàn vào nhà nước (mức hưởng), không cần đóng góp, thì không phù hợp với xu hướng quốc tế. Đây chỉ là một trong những giải pháp cuối cùng đối với những nhóm đối tượng đặc thù, không nên là hướng ưu tiên cơ bản của “tầng 1”; cần phải bổ sung thêm chính sách hỗ trợ người tham gia Bảo hiểm xã hội tự nguyện (cả mức đóng và mức hưởng), chính sách này hiện đang ở “tầng 2” theo đề xuất của Bộ Lao động, Thương Binh và Xã hội, song cũng chưa đầy đủ.

Tầng thứ 2 cần phải mở rộng diện tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc, tiến đến thực hiện bảo hiểm xã hội bắt buộc đối với toàn bộ người lao động, không phân biệt hình thức việc làm và quan hệ lao động. Ở tầng này, bảo hiểm xã hội dựa chủ yếu vào nguyên tắc đóng - hưởng cá nhân (thay vì nguyên tắc tọa thu - tọa chi như hiện nay), đóng bao nhiêu hưởng bấy nhiêu, đóng cao hưởng cao, đóng ít hưởng ít, sự hỗ trợ của Nhà nước, nếu có, chỉ ở mức hạn chế đối với một số nhóm đối tượng. Nhà nước cần tăng cường chế tài để buộc người chủ sử dụng lao động phải tuân thủ đóng cho người lao động trong trường hợp làm công ăn lương và đóng Bảo hiểm xã hội cá nhân đối với các trường hợp còn lại.

Tầng thứ 3 là bảo hiểm xã hội tự nguyện, thực hiện theo một số ngành nghề đặc thù, mục tiêu là để những người thu nhập cao tự nguyện mức đóng để hưởng chế độ hưu trí tăng thêm. Tuy nhiên, cần phải bảo đảm tính cân bằng của hệ thống và hạn chế các bình đẳng xã hội (ví dụ, chênh lệch hưu trí quá lớn).

  • Các giải pháp thực hiện áp dụng

Cần thiết xem xét tiếp tục sửa đổi Luật Bảo hiểm xã hội (sửa đổi năm 2014), đặc biệt hoàn thiện chính sách bảo hiểm xã hội tự nguyện theo hướng bảo đảm bình đẳng về chính sách và chế độ giữa bảo hiểm xã hội bắt buộc và tự nguyện; tiếp tục hoàn thiện các chính sách khuyến khích người lao động khu vực phi chính thức tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện.

Tiếp tục hoàn thiện công tác quản lý nhà nước về bảo hiểm xã hội; hiện đại hóa việc chi trả, theo dõi đối tượng bảo hiểm xã hội, xóa bỏ yếu tố “hộ khẩu” trong việc tổ chức tham gia đóng - hưởng bảo hiểm xã hội; nhanh chóng xây dựng cơ sở dữ liệu về an sinh xã hội và mã an sinh xã hội.

Tăng cường tuyên truyền, nâng cao nhận thức của người lao động và người sử dụng lao động về quyền lợi và trách nhiệm tham gia bảo hiểm xã hội. Triển khai quyết liệt các giải pháp tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra việc tuân thủ trong tham gia và thụ hưởng chính sách bảo hiểm xã hội.

Tiếp tục điều chỉnh, mở rộng diện bao phủ của chính sách lương hưu xã hội (chính sách trợ cấp xã hội hằng tháng bằng tiền mặt) đối với người cao tuổi không có nguồn thu nhập ổn định hoặc không được hưởng lương hưu hay trợ cấp bảo hiểm xã hội khác. Mức lương hưu trí xã hội được xác định trên cơ sở chuẩn mức sống xã hội.

Cần tiến hành các cải chính tài chính để có thể tăng khả năng ngân sách hỗ trợ chính sách an sinh xã hội trong thời kỳ ngắn hạn và dài hạn.

Chính phủ cần tiếp tục hoàn thiện hệ thống an sinh xã hội bao phủ đến toàn dân, dựa trên đóng góp về thuế và đóng góp tham gia hệ thống.

COVID-19 cũng cho thấy vai trò của việc huy động sự tham gia của xã hội vào hỗ trợ nhóm yếu thế và nhóm không được bao phủ bởi chính sách an sinh xã hội./.

----------------------

(1) Bao gồm các chính sách: (i) hỗ trợ cho hộ nghèo và hộ cận nghèo và các đối tượng chính sách khác; (ii) các chính sách về hỗ trợ về tiền mặt; miễn/ giảm các chi phí về điện, nước, dịch vụ khác; (iii) giảm, miễn, hoãn đóng vào BHXH và BHTN; (iv) giảm các điều kiện để hưởng chính sách BHTN...

(2) Sàn ASXH, theo khuyến nghị ILO (ILO Recommendation 202) - là một hệ thống các chính sách ASXH bảo đảm tiếp cận toàn dân về chăm sóc y tế cơ bản và thu nhập cơ bản cho mọi nhóm người trong xã hội (trẻ em, người trong tuổi lao động và người già). Điều này đạt được thông qua hệ thống chính sách đóng góp và không dóng góp, có vai trò rất quan trọng trong việc mở rộng phạm vi bảo phủ của ASXH trong các nước có thu nhập thấp và trung bình