Cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại và nền kinh tế tri thức

PGS, TS. Vũ Văn Phúc
Phó Chủ tịch Hội đồng Khoa học các cơ quan Đảng Trung ương
16:59, ngày 30-10-2020

TCCS - Nền kinh tế tri thức dựa ngày càng nhiều vào các thành tựu của khoa học - công nghệ, gồm: Nghiên cứu, sáng tạo ra công nghệ mới, sản phẩm mới. Vì vậy, hình thành và phát triển tài nguyên trí lực là nhiệm vụ quan trọng hiện nay nhằm đưa đất nước phát triển nhanh và bền vững.

Kiểm tra chất lượng sản phẩm trước khi giao cho khách hàng tại Công ty TNHH Mạnh Quang (Hà Nội)_Ảnh: vnanet.vn

Khái quát quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê-nin về khoa học, về tri thức

Cách đây hơn 180 năm, C. Mác đã nhận định, khoa học sẽ trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Trong bộ Tư bản, C. Mác khẳng định: “Sự phát triển của tư bản cố định là chỉ số cho thấy tri thức xã hội phổ biến đã chuyển hóa đến mức độ nào đó thành lực lượng sản xuất trực tiếp”(1).

C. Mác cũng dự báo, theo đà phát triển của đại công nghiệp, việc tạo ra của cải thực sự trở nên ít phụ thuộc vào thời gian lao động và số lượng lao động đã chi phí mà chúng phụ thuộc vào trình độ chung của khoa học và tiến bộ kỹ thuật, hay là phụ thuộc vào việc ứng dụng khoa học ấy trong sản xuất. Lao động biểu hiện ra không phải chủ yếu là lao động được nhập vào quá trình sản xuất mà chủ yếu là một loại lao động, trong đó, con người là người kiểm soát và điều tiết bản thân quá trình sản xuất. Hệ thống máy móc tự động sẽ từng bước thay thế hầu hết lao động trực tiếp. Bởi vậy, thay vì làm tác nhân chủ yếu của quá trình sản xuất, công nhân lại đứng bên cạnh quá trình ấy. Khi ấy tri thức trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, phát minh trở thành một nghề đặc biệt, và đối với nghề này thì việc vận dụng khoa học vào nền sản xuất trực tiếp tự nó trở thành một trong những yếu tố có tính chất quyết định và kích thích. Quá trình sản xuất từ chỗ là một quá trình lao động giản đơn thành một quá trình khoa học. Lao động trực tiếp về lượng sẽ quy vào một phần nhỏ hơn, còn về chất được chuyển hóa thành một yếu tố cần thiết, nhưng là thứ yếu so với lao động khoa học phổ biến và đối với sự áp dụng khoa học tự nhiên vào công nghệ.

Một khi lao động dưới hình thái trực tiếp không còn là nguồn gốc của của cải nữa thì nền sản xuất dựa trên giá trị trao đổi sẽ bị sụp đổ và sự rút ngắn thời gian lao động cần thiết nhằm tăng thời gian lao động thặng dư sẽ thay bằng tăng thời gian nhàn rỗi cho xã hội nói chung và cho từng thành viên của xã hội nói riêng, nghĩa là tạo ra khả năng rộng rãi để phát triển một cách hoàn toàn đầy đủ lực lượng sản xuất của từng người, do đó cũng là của cả xã hội.

Nếu sức sản xuất của lao động tăng lên nhờ ứng dụng các thành tựu khoa học - công nghệ hiện đại vẫn nhắm vào mục tiêu rút ngắn thời gian lao động cần thiết để tăng lao động thặng dư thì tình trạng thất nghiệp và sản xuất thừa tương đối sẽ ngày càng trầm trọng. Bởi vậy, quần chúng công nhân phải tự mình chiếm hữu lấy lao động thặng dư của mình. Khi nào công nhân bắt đầu thực hiện việc đó, thì khi ấy, một mặt thước đo thời gian lao động cần thiết sẽ là những nhu cầu của cá nhân xã hội, và mặt khác, sự phát triển của sức sản xuất xã hội sẽ diễn ra nhanh chóng đến mức mặc dù sản xuất sẽ nhằm vào sự giàu có của tất cả mọi người, nhưng thời gian nhàn rỗi của mọi người sẽ tăng lên. Bởi vì sự giàu có thật sự là sức sản xuất phát triển của tất cả các cá nhân. Khi ấy thước đo sự giàu có tuyệt nhiên sẽ không còn là thời gian lao động nữa, mà là thời gian nhàn rỗi.

Dự báo trên còn chờ sự “kiểm chứng” của lịch sử nhưng nó chỉ ra điều kiện để xóa bỏ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa là sự phát triển cao của lực lượng sản xuất, khi mà kinh tế tri thức đã trở thành phổ biến. Bởi vậy, phải nắm vững nguyên lý: “Không một hình thái xã hội nào diệt vong trước khi tất cả những lực lượng sản xuất mà hình thái xã hội đó tạo địa bàn đầy đủ cho phát triển, vẫn chưa phát triển, và những quan hệ sản xuất mới, cao hơn, cũng không bao giờ xuất hiện trước khi những điều kiện tồn tại vật chất của những quan hệ đó chưa chín muồi trong lòng bản thân xã hội cũ. Cho nên nhân loại bao giờ cũng chỉ đặt ra cho mình những nhiệm vụ mà nó có thể giải quyết được, vì khi xét kỹ hơn, bao giờ người ta cũng thấy rằng bản thân nhiệm vụ ấy chỉ nảy sinh khi những điều kiện vật chất để giải quyết nhiệm vụ đó đã có rồi, hay ít ra cũng đang ở trong quá trình hình thành”(2).

Như vậy, không thể nóng vội xóa bỏ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa khi lực lượng sản xuất chưa đòi hỏi, khi sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa chưa trở thành xiềng xích kìm hãm sự phát triển lực lượng sản xuất, khi những điều kiện cho sự tiêu vong của sở hữu tư bản chủ nghĩa chưa xuất hiện.

Cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại

Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ nhất bắt nguồn từ sự ra đời động cơ hơi nước - thúc đẩy cơ khí hóa quá trình sản xuất (cuối thế kỷ XVIII). Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ hai diễn ra khi có sự phát triển của ngành điện để tạo ra nền sản xuất hàng loạt vào 30 năm cuối của thế kỷ XIX. Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ ba xuất hiện vào những năm 50 của thế kỷ XX với sự ra đời của điện tử và công nghệ thông tin - thúc đẩy tự động hóa sản xuất. Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ ba còn được gọi là cuộc Cách mạng khoa học và công nghệ. Cuộc Cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại đã tạo nên sự thay đổi to lớn trên nhiều lĩnh vực của đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh - quốc phòng... Vào giữa những năm 80 của thế kỷ XX, cuộc Cách mạng khoa học và công nghệ chuyển sang giai đoạn mới: giai đoạn hiện đại hóa với công nghiệp siêu dẫn, giai đoạn vi điện tử, giai đoạn tin học hóa,… Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư hiện chỉ đang ở giai đoạn khởi đầu, nhưng rõ ràng nó đang mở ra nhiều cơ hội cho các nước, nhất là các nước đang phát triển, nhằm nâng cao năng suất và rút ngắn khoảng cách phát triển, đồng thời cũng đặt ra không ít thách thức lớn.

So với các cuộc cách mạng công nghiệp trước, cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư khác cả về tốc độ, phạm vi và chắc chắn sẽ tác động to lớn lên toàn bộ các hệ thống toàn cầu, báo trước sự chuyển hóa toàn bộ các hệ thống: sản xuất, quản lý, phân phối, tiêu dùng... Không giống các cuộc cách mạng công nghiệp trước vốn chỉ tập trung ở các quốc gia phát triển, cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư phủ khắp toàn cầu, do đó, tầm ảnh hưởng cũng rộng hơn.

Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại có hai đặc trưng chủ yếu:

Một là, thời gian cho một phát minh mới của khoa học - công nghệ ra đời thay thế cho phát minh cũ có xu hướng rút ngắn lại và phạm vi ứng dụng vào sản xuất và đời sống ngày càng mở rộng. Vì vậy, đòi hỏi cần được kết hợp chặt chẽ giữa chiến lược phát triển khoa học - công nghệ với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội.

Hai là, khoa học - công nghệ đã thực sự trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp (bao gồm cả khoa học tự nhiên, khoa học xã hội - nhân văn...) do con người tạo ra và thông qua con người tác động trở lại đời sống kinh tế - xã hội... Vì vậy, đòi hỏi cần phải có chính sách đầu tư cho khoa học - công nghệ một cách thích ứng...

Trong giai đoạn hiện nay, khoa học - công nghệ luôn gắn bó chặt chẽ với nhau: khoa học là tiền đề trực tiếp của công nghệ và công nghệ lại là kết quả trực tiếp của khoa học. Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư làm thay đổi căn bản phương thức sản xuất và mọi mặt đời sống xã hội, hình thành và phát triển kinh tế tri thức, kinh tế số, xã hội số, chính phủ số… Ngày nay, cuộc cách mạng khoa học - công nghệ, nhất là cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư phát triển mạnh mẽ, thì nguồn lực chuyển mạnh từ nguồn lực hữu hình là các tư liệu sản xuất sang nguồn lực vô hình là tri thức của loài người, trí tuệ của con người, trí tuệ nhân tạo, là công nghệ tiên tiến, hiện đại, công nghệ kỹ thuật số, in-tơ-nét vạn vật, thông tin, dữ liệu lớn (big data), bằng sáng chế, phát minh, giải pháp công nghệ, bản quyền, thương hiệu, nhãn hiệu hàng hóa, lợi thế thương mại, uy tín trên thương trường... Nguồn lực vô hình ngày càng chiếm vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng, thậm chí giữ vai trò quyết định trong nền kinh tế tri thức. Chủ sở hữu nào mà sở hữu được nguồn lực vô hình thì càng có cơ hội chiến thắng trong cạnh tranh, vì khi sở hữu được những tri thức, trí tuệ con người, trí tuệ nhân tạo, công nghệ tiên tiến hiện đại, công nghệ kỹ thuật số,... và vận dụng vào trong quá trình sản xuất thì sẽ tạo ra những hàng hóa chiếm ưu thế vượt trội trên thị trường với năng suất lao động cao hơn, chất lượng sản phẩm tốt hơn, giá trị cá biệt thấp hơn, sức cạnh tranh cao hơn và thường chiến thắng trong cạnh tranh, thu được lợi ích kinh tế tối đa. Chính điều này là động lực thúc đẩy lực lượng sản xuất xã hội phát triển, là cơ sở để chuyển mạnh sang sản xuất theo chiều sâu, tăng năng suất của các yếu tố tổng hợp (TFP), chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế. Vì vậy, phải coi phát triển khoa học - công nghệ thực sự là quốc sách hàng đầu; phải chuyển mạnh từ áp dụng, “bắt chước” công nghệ sẵn có sang đổi mới sáng tạo công nghệ, phát triển công nghệ mới, tiên tiến hiện đại là một đột phá chiến lược. Bên cạnh đó, cần có công nghệ “Made by Vietnam” để tạo ra hàng hóa “Made by Việt Nam”. Những yêu cầu đó đòi hỏi phải hoàn thiện thể chế về sở hữu trí tuệ theo hướng khuyến khích đổi mới sáng tạo, phát triển khoa học - công nghệ, bảo đảm tính minh bạch và độ tin cậy cao; quyền sở hữu trí tuệ được bảo vệ và thực thi hiệu quả...

Kinh tế tri thức

Nền kinh tế tri thức dựa ngày càng nhiều vào các thành tựu của khoa học - công nghệ _ Ảnh: tapchicongthuong.vn

Kinh tế tri thức là nền kinh tế dựa trực tiếp vào việc sản xuất, phân phối và sử dụng tri thức, thông tin. Trong nền kinh tế tri thức, việc sản xuất, phân phối và sử dụng tri thức giữ vai trò quyết định đối với sự phát triển kinh tế, xã hội; tạo ra của cải, nâng cao chất lượng cuộc sống. Kinh tế tri thức là nền kinh tế được phát triển chủ yếu dựa vào tri thức và công nghệ hiện đại. Cơ sở của nền kinh tế tri thức là tri thức (thể hiện trong con người và trong công nghệ)...

Sự ra đời và phát triển của nền kinh tri thức là kết quả tất yếu của quá trình phát triển lực lượng sản xuất xã hội. Nó được thúc đẩy bởi sự phát triển mạnh mẽ của cách mạng khoa học - công nghệ tiên tiến hiện đại, nhất là cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư với sự phát triển nhanh, mang tính đột phá của công nghệ thông tin. Sự xuất hiện ngày càng nhiều các sáng kiến, phát minh khoa học,... đã tạo ra tính linh hoạt, hiệu quả cao cho hoạt động sản xuất.

Kinh tế tri thức là giai đoạn phát triển cao của lực lượng sản xuất, cao hơn so với kinh tế công nghiệp và kinh tế nông nghiệp. Trong nền kinh tế tri thức, tri thức đóng vai trò quyết định hàng đầu đối với phát triển kinh tế - xã hội.

Có thể khái quát đặc điểm của kinh tế tri thức ở những mặt sau:

Thứ nhất, tri thức là lực lượng sản xuất trực tiếp. Tri thức là nguồn lực vô hình to lớn, quan trọng nhất trong đầu tư phát triển, nền kinh tế dựa chủ yếu vào tri thức. Nền kinh tế tri thức lấy tri thức là nguồn lực có vị trí quyết định nhất của sản xuất, là động lực quan trọng nhất cho sự phát triển.

Thứ hai, nền kinh tế dựa ngày càng nhiều vào các thành tựu của khoa học - công nghệ. Nếu trong nền kinh tế công nghiệp, sức cạnh tranh chủ yếu dựa vào tối ưu hóa và hoàn thiện công nghệ hiện có, thì trong nền kinh tế tri thức lại dựa chủ yếu vào việc nghiên cứu, sáng tạo ra công nghệ mới, sản phẩm mới. Trong nền kinh tế tri thức, cơ cấu sản xuất dựa ngày càng nhiều vào việc ứng dụng các thành tựu của khoa học - công nghệ, đặc biệt là công nghệ chất lượng cao. Các quyết sách kinh tế được tri thức hóa.

Thứ ba, cơ cấu lao động được chuyển dịch theo hướng ngày càng coi trọng lao động trí tuệ. Trong nền kinh tế tri thức, cơ cấu lao động chuyển dịch theo hướng giảm số lao động trực tiếp làm ra sản phẩm, tăng số lao động trí tuệ. Lao động trí tuệ chiếm tỷ trọng ngày càng cao. Nguồn nhân lực nhanh chóng được tri thức hóa, sự sáng tạo, đổi mới, học tập trở thành nhu cầu thường xuyên đối với mọi người. Học suốt đời, xã hội học tập là nền tảng của kinh tế tri thức.

Thứ tư, quyền sở hữu trí tuệ ngày càng trở nên quan trọng. Quyền sở hữu trí tuệ là sự bảo đảm pháp lý cho tri thức và sự đổi mới sáng tạo sẽ tiếp tục được tạo ra, duy trì và phát triển. Trong nền kinh tế tri thức, nguồn lực trí tuệ và năng lực đổi mới là hai nhân tố then chốt để đánh giá khả năng cạnh tranh, tiềm năng phát triển và sự thịnh vượng của một quốc gia. Các tài sản trí tuệ và quyền sở hữu trí tuệ ngày càng trở nên quan trọng. Việc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ được xem là một nguyên tắc cơ bản trong sự vận động và phát triển của nền kinh tế tri thức.

Thứ năm, nền kinh tế tri thức là nền kinh tế toàn cầu. Nền kinh tế tri thức chỉ được hình thành và phát triển khi lực lượng sản xuất xã hội đã phát triển ở trình độ cao, phân công lao động mang tính quốc tế và theo đó là hệ thống sản xuất mang tính kết nối giữa các doanh nghiệp các quốc gia trong một chuỗi giá trị sản phẩm. Bởi vậy, nó mang tính toàn cầu hóa. Trong nền kimh tế tri thức, sự sản sinh, truyền bá và sử dụng tri thức không còn nằm trong phạm vi biên giới một quốc gia. Nền kinh tế tri thức còn được gọi là nền kinh tế toàn cầu hóa nối mạng, hay là nền kinh tế toàn cầu dựa vào tri thức.

Ngoài các đặc điểm trên, nền kinh tế tri thức còn là một nền kinh tế hướng đến sự phát triển bền vững, thân thiện với môi trường; nền kinh tế làm thay đổi cơ cấu xã hội và thang giá trị xã hội, làm xuất hiện các cộng đồng dân cư kiểu mới, các làng khoa học, các công viên khoa học, vườn ươm khoa học...

Để phát triển kinh tế tri thức cần những tiền đề sau:

Một là, thể chế kinh tế và môi trường xã hội thuận lợi cho sáng tạo và sử dụng tri thức. Thể chế kinh tế và môi trường xã hội thuận lợi, minh bạch cho phép dòng chảy tự do của tri thức, đổi mới sáng tạo công nghệ, hỗ trợ công nghệ - thông tin và truyền thông, khuyến khích các chủ doanh nghiệp sáng tạo và sử dụng tri thức là trọng tâm của kinh tế tri thức.

Hai là, hệ thống giáo dục - đào tạo có chất lượng. Hệ thống giáo dục - đào tạo là điều kiện quan trọng để người dân có cơ hội được học tập, nghiên cứu nâng cao năng lực sáng tạo, chia sẻ và sử dụng tri thức. Đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao. Nguồn nhân lực nhanh chóng được tri thức hóa; sự sáng tạo, đổi mới, học tập trở thành yêu cầu thường xuyên đối với mọi người và phát triển toàn diện con người trở thành nhiệm vụ trung tâm của xã hội.

Ba là, hạ tầng cơ sở thông tin (ICT) hiện đại. Hạ tầng cơ sở thông tin là điều kiện cần thiết để tăng cường sự trao đổi phổ biến và xử lý kiến thức. Công nghệ thông tin được ứng dụng rộng rãi trong mọi lĩnh vực và thiết lập được các mạng thông tin đa phương tiện. Thông tin trở thành tài nguyên quan trọng của nền kinh tế tri thức.

Kết cấu hạ tầng quan trọng nhất của nền kinh tế tri thức là thông tin, việc tổ chức sản xuất trở nên linh hoạt đặc biệt. Với mạng thông tin, tri thức truyền bá, phổ cập rộng rãi, mạng thông tin trở thành hệ thống cung cấp nguyên liệu không biên giới cho hệ thống sản xuất và phân công lao động toàn cầu. Các hoạt động sản xuất, kinh doanh trở nên sôi động, nhanh nhạy, gắn bó mật thiết với thị trường, tổ chức quản lý có hiệu lực và hiệu quả hơn, thúc đẩy sự minh bạch và trách nhiệm giải trình của không những chủ thể các tổ chức sản xuất, kinh doanh mà còn bao hàm các chính phủ và các tổ chức quốc tế.

Bốn là, hệ thống sáng tạo có hiệu quả. Mạng lưới các học viện, trường đại học, trung tâm nghiên cứu, tổ chức chuyên gia, cố vấn, doanh nghiệp, các nhóm cộng đồng là cần thiết để thu nhận được kho tri thức toàn cầu luôn không ngừng tăng, truyền bá và thích ứng chúng cho các nhu cầu của đất nước và sáng tạo ra các tri thức mới cần thiết.

Năm là, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội. Với đặc trưng của nền kinh tế tri thức, kết cấu hạ tầng cứng là quan trọng và cần thiết. Với tư cách là thành tố vật chất của lực lượng sản xuất, phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội luôn giữ vai trò đặc biệt. Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội xác lập sự đồng bộ trong hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội nhằm tạo ra tiền đề cho sự hình thành các trụ cột của nền kinh tế tri thức, tạo ra môi trường cho sự phát triển của hệ thống sáng tạo từ đó mà thúc đẩy sự lan tỏa và sản sinh tri thức mới thay vì chỉ là ứng dụng tri thức.

Giải pháp phát triển cách mạng khoa học - công nghệ và kinh tế tri thức ở Việt Nam

Thứ nhất, đổi mới cơ chế, chính sách, tạo lập một khuôn khổ pháp lý mới phù hợp với sự phát triển nền kinh tế tri thức. Cơ chế, chính sách phải thực sự khuyến khích và buộc các doanh nghiệp phải luôn đổi mới dựa trên công nghệ mới và thúc đẩy nhanh chóng sự ra đời các doanh nghiệp mới, nhất là các doanh nghiệp kinh doanh sản phẩm mới, công nghệ mới. Tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng, chống độc quyền.

Thứ hai, phát triển mạnh nguồn lao động trí tuệ, nâng cao dân trí, đào tạo nhân tài. Tập trung đầu tư phát triển giáo dục, cải cách giáo dục. Tăng nhanh đào tạo đội ngũ cán bộ khoa học - kỹ thuật và công nhân lành nghề, đội ngũ cán bộ quản lý, doanh nhân... Cần coi giáo dục - đào tạo, khoa học - công nghệ là quốc sách hàng đầu, là đột phá để đáp ứng nhu cầu về nhân lực chất lượng cao cho nền kinh tế tri thức.

Thứ ba, tăng cường năng lực khoa học - công nghệ quốc gia để có thể tiếp thu, làm chủ, vận dụng sáng tạo các tri thức khoa học - công nghệ mới nhất của thế giới cần thiết cho phát triển của đất nước, từng bước sáng tạo công nghệ đặc thù của đất nước, xây dựng nền khoa học - công nghệ tiến tiến của Việt Nam.

Thứ tư, đẩy mạnh ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Công nghệ thông tin là chìa khóa để đi vào kinh tế tri thức. Muốn rút ngắn quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, rút ngắn khoảng cách với các nước, phải khắc phục khoảng cách về công nghệ thông tin.

Thứ năm, đẩy mạnh đầu tư cho nghiên cứu khoa học - công nghệ nhằm tạo nền tảng công nghệ phục vụ phát triển đất nước theo hướng hiện đại và tạo ra các yếu tố nền tảng của kinh tế tri thức. Đổi mới cơ chế quản lý nhà nước về khoa học - công nghệ. Cơ chế đó phải hướng vào việc thúc đẩy khoa học - công nghệ thực sự gắn kết với sản xuất - kinh doanh, khoa học xâm nhập vào thực tiễn sản xuất - kinh doanh làm ra của cải và tri thức mới phục vụ trực tiếp công cuộc phát triển kinh tế  - xã hội… Cùng với việc đầu tư cho nghiên cứu (chú trọng cả khoa học - công nghệ cùng với khoa học - xã hội và nhân văn), việc đẩy mạnh ứng dụng thành tựu khoa học - công nghệ tiên tiến, hiện đại vào các khâu, các lĩnh vực then chốt của nền kinh tế tạo ra khả năng lan tỏa trong nền kinh tế theo hướng hiện đại, cũng cần được chú ý.

Thứ sáu, từng bước hình thành và phát triển tài nguyên trí lực. Tài nguyên trí lực là một kết cấu bao hàm nhiều năng lực; nó cũng không phải là phép gộp đơn giản các nhân tố, như sức quan sát, khả năng của trí nhớ, suy nghĩ, óc tưởng tượng, kỹ năng thực hành và sức sáng tạo của con người, mà là sự kết hợp trong một cấu trúc tạo nên giá trị của tài nguyên trí lực, trong đó, tầm quan trọng của tri thức, kỹ năng là yếu tố then chốt.

Thứ bảy, tích cực và chủ động hội nhập quốc tế nhằm tranh thủ nguồn ngoại lực kết hợp với nội lực để phát triển khoa học - công nghệ. Trong quá trình hội nhập đó, đòi hỏi sự sáng tạo mới khai thác được những lợi ích mà hội nhập có thể mang lại để phục vụ cho mục tiêu hiện đại hóa lực lượng sản xuất./.

----------------------

(1) C. Mác và Ph. Ăng-ghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t. 46, phần II, tr. 372 – 373
(2) C. Mác và Ph. Ăng-ghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, 2000, t. 13, tr.15 - 16