Đoàn kết tôn giáo trong tư tưởng Hồ Chí Minh
Đoàn kết tôn giáo cũng chính là đoàn kết dân tộc
Nói về sức mạnh của sự đoàn kết, Hồ Chí Minh diễn đạt thật giản dị để đồng bào ai cũng hiểu: "Hòn đá to, hòn đá nặng/ Một người nhấc, nhấc không đặng/... Nhiều người nhấc, nhấc lên đặng". Người chỉ rõ: Đoàn kết là truyền thống cực kỳ quý báu của nhân dân ta, là cái bảo đảm chắc chắn nhất đưa cách mạng đến bến bờ thành công, và "Đoàn kết là một lực lượng tất thắng".
Có thể nói, tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết tôn giáo được xây dựng trên cơ sở nhận thức rõ đặc điểm văn hóa Việt Nam - một quốc gia đa dân tộc, đa tôn giáo, các tôn giáo, tín ngưỡng có quá trình hình thành, phát triển với những đặc điểm riêng, tồn tại đan xen, ảnh hưởng lẫn nhau. Thực chất, đoàn kết tôn giáo cũng chính là nhằm xây dựng, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Bản thân cuộc đời hoạt động cách mạng của Hồ Chí Minh là minh chứng rõ rệt cho sự tôn trọng và coi trọng đồng bào theo tôn giáo cũng như đồng bào không theo tôn giáo, bởi họ đều là người dân đất Việt, mang trong mình dòng máu "con Lạc, cháu Hồng". Sớm nhận ra sức mạnh lớn lao của cộng đồng đồng bào theo tôn giáo, Người khéo léo khơi dậy ở họ ý thức đoàn kết tôn giáo để đoàn kết dân tộc, lấy đó làm nguồn lực vô cùng mạnh mẽ góp phần thúc đẩy thắng lợi của sự nghiệp giải phóng đất nước, giành độc lập, tự do về cho Tổ quốc. Bản thân Người là một tấm gương sáng trong lĩnh vực đoàn kết dân tộc, đoàn kết tôn giáo. Ngay từ khi mới trở về Pắc Bó, Người đã chú ý đến phong tục, tập quán của nhân dân trong vùng; Người cũng gửi nhiều thư, điện đến các vị giám mục, linh mục để vận động tinh thần yêu nước của đồng bào Công giáo; gửi thư biểu dương công trạng cũng như tinh thần tham gia kháng chiến của đồng bào các dân tộc, tôn giáo... Với tấm lòng chân thật, tư duy chính trị sắc sảo và tầm nhìn của một nhà chính trị tài ba, Hồ Chí Minh đã quy tụ được rất nhiều tên tuổi vừa có đức, vừa có tài tự nguyện, toàn tâm toàn ý tụ về dưới lá cờ đại nghĩa do Người lãnh đạo, như các nhân sĩ, trí thức Huỳnh Thúc Kháng, Bùi Bằng Đoàn, Nguyễn Văn Tố, Ngô Tử Hạ, Vi Văn Định, Nguyễn Văn Huyên, Hoàng Minh Giám, Vũ Đình Tụng..., nhà tư sản Đỗ Đình Thiện, Trịnh Văn Bô..., các vị chức sắc tôn giáo như Đức cha Phạm Bá Trực. Ngay cả những giám mục bị bọn đế quốc phản động lợi dụng như giám mục Lê Hữu Từ, Người ứng xử mềm dẻo, chân tình: nhận là bạn, mời làm cố vấn cho Chính phủ và lựa lời khuyên giải.
Hồ Chí Minh đồng thời thể hiện sự quan tâm tới sinh hoạt tôn giáo thông qua việc trực tiếp đến thăm viếng các chùa chiền, nhà thờ, tham dự các nghi lễ tôn giáo (Lễ Phật đản, Lễ Giáng sinh...). Chỉ một ngày sau khi tuyên bố Việt Nam là một nước độc lập, ngày 3-9-1945, Người đã có kế hoạch tiếp các tổ chức, đoàn thể (Công giáo, Phật giáo, công giới, thương giới, nông hội, thanh niên, nhi đồng...). Tại phiên họp đầu tiên của Chính phủ Cách mạng lâm thời, một trong sáu nhiệm vụ cấp bách của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa được Hồ Chí Minh nêu lên là: "Thực dân và phong kiến thi hành chính sách chia rẽ đồng bào Giáo và đồng bào Lương, để dễ thống trị. Tôi đề nghị Chính phủ ta tuyên bố: TÍN NGƯỠNG TỰ DO và Lương Giáo đoàn kết"(1).
Người cũng nêu 6 điều nên làm và không nên làm, trong đó ghi rõ: "Không nên xúc phạm đến tín ngưỡng, phong tục của dân". Người chăm lo đời sống tôn giáo của nhân dân, quan tâm đến các tổ chức tôn giáo, song không phải để biến mỗi tôn giáo lớn mạnh thành một "vương quốc riêng" bất khả xâm phạm, mà "Các tổ chức tôn giáo phải tuân thủ theo pháp luật nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, như mọi tổ chức khác của nhân dân" (Điều 14, Chương IV, Sắc lệnh về tôn giáo số 234, do Chủ tịch Hồ Chí Minh ký). Người xác định rõ: đối với chủ nghĩa thực dân và các thế lực tôn giáo phản động cấu kết với nhau đó là đấu tranh chống kẻ địch; đối với đồng bào tôn giáo làm sai chính sách tôn giáo của Đảng, Nhà nước là đấu tranh trong nội bộ nhân dân, và luôn có thái độ mềm dẻo, đưa ra những biện pháp khôn khéo, hợp cả lý lẫn tình trong việc giải quyết các vấn đề tôn giáo ở nước ta (quan hệ giữa các tôn giáo, quan hệ giữa tôn giáo với chính quyền, quan hệ giữa người theo tín ngưỡng, tôn giáo với người không theo tín ngưỡng, tôn giáo...). Người đã tìm ra sự tương đồng giữa các tôn giáo, lấy đó làm cơ sở khoa học cho việc thực hiện đoàn kết tôn giáo qua lý giải: các tôn giáo chân chính đều có hy vọng giải thoát con người, mong muốn con người được tự do, sung sướng, hạnh phúc: Phật sinh ra để lợi lạc quần sinh, vô ngã vị tha, Đức Giê-su hy sinh là vì muốn loài người được tự do, hạnh phúc, Khổng Tử sinh ra cũng là để giúp con người sống nhân nghĩa vì một thế giới đại đồng; tín đồ tôn giáo nhìn chung đều là những người lao động bị chế độ cũ áp bức, bóc lột, họ có quyền mưu cầu hạnh phúc, họ là những người yêu nước, và cũng là lực lượng không thể thiếu của cách mạng, là bộ phận quan trọng trong khối đại đoàn kết toàn dân với tư cách là chủ thể của cách mạng.
Nhờ những sự quan tâm thiết thực đó, tinh thần đoàn kết tôn giáo ở nước ta ngày càng được tăng cường, góp phần tích cực thúc đẩy sự lớn mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc và sự phát triển ổn định, hài hòa của xã hội.
Có thể khẳng định, "tín ngưỡng tự do, Lương Giáo đoàn kết" là nguyên tắc trọng tâm, xuyên suốt và nhất quán trong tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo, là biểu hiện sinh động của đoàn kết tôn giáo trên nền tảng đại đoàn kết dân tộc. Nội dung tư tưởng đoàn kết tôn giáo của Hồ Chí Minh mang tính chất toàn diện, thể hiện và được vận dụng trong tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa... của đời sống xã hội, qua đó chứng tỏ tâm và tầm của một nhà chính trị sắc sảo, nhạy bén và cũng rất đỗi nhân văn. Người nói: Phải đoàn kết chặt chẽ giữa đồng bào Lương và các đồng bào tôn giáo, cùng nhau xây dựng đời sống hòa thuận ấm no, xây dựng Tổ quốc. Và Người cho rằng, cách mạng là sự nghiệp lớn, lâu dài, đồng bào Lương hay Giáo đều cùng là người Việt Nam, đều là người lao động, nên muốn sự nghiệp lớn của dân tộc thành công thì Lương - Giáo phải đoàn kết, toàn dân phải đoàn kết.
Tôn trọng sự bình đẳng giữa các tôn giáo, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân là góp phần tích cực phát huy dân chủ
Thực hiện phương châm "tín ngưỡng tự do, Lương Giáo đoàn kết" trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn luôn tôn trọng sự phát triển của các tôn giáo và quyền tự do tín ngưỡng, tự do tôn giáo của nhân dân. Hồ Chí Minh chỉ rõ, học thuyết của Khổng Tử có ưu điểm là sự tu dưỡng đạo đức cá nhân, tôn giáo Thiên Chúa Giê-su có ưu điểm là lòng nhân ái cao cả, chủ nghĩa Mác có ưu điểm là phương pháp làm việc biện chứng, chủ nghĩa Tôn Dật Tiên có ưu điểm là chính sách thích hợp với điều kiện cụ thể một nước phương Đông lúc ấy; mỗi học thuyết, hệ tư tưởng ấy đều có những ưu điểm riêng, song đều có mục đích chung là mưu cầu hạnh phúc cho loài người, mưu phúc lợi cho xã hội.
Bình đẳng về quyền, về nghĩa vụ trước Tổ quốc và đức tin tôn giáo của mỗi người là điều Người luôn khẳng định và tôn trọng. ở "Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến", Người hiệu triệu toàn dân: "Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ không phân chia tôn giáo, đảng phái, hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp, cứu Tổ quốc". Đáp lại lời kêu gọi đó, nhân dân Việt Nam triệu người như một hăng hái thi đua kháng chiến, kiến quốc; rất nhiều chức sắc tôn giáo đã trực tiếp tham gia kháng chiến, động viên tín đồ ủng hộ kháng chiến, kiến quốc. Khi đồng bào tôn giáo ngã xuống vì sự nghiệp đấu tranh giải phóng, xây dựng Tổ quốc, Người bày tỏ thái độ tiếc thương, đau xót, trân trọng cống hiến của họ: "Tôi được báo cáo rằng: con giai ngài đã oanh liệt hy sinh cho Tổ quốc... Mất một thanh niên thì hình như tôi đứt một đoạn ruột. Nhưng cháu và anh em thanh niên khác dũng cảm hy sinh để giữ gìn đất nước. Thế là họ đã làm rạng rỡ dân tộc, vẻ vang giống nòi... Họ là con thảo của Đức Chúa, họ đã thực hiện cái khẩu hiệu: Thượng đế và Tổ quốc"(2) (thư gửi bác sỹ Vũ Đình Tụng, một trí thức công giáo tiêu biểu tham gia kháng chiến). Đối với giám mục Lê Hữu Từ, Người đưa vào hàng ngũ cố vấn cấp cao của Chính phủ những năm đầu kháng chiến chống Pháp. Trong bức thư Người viết gửi cho giám mục vào tháng 1-1947 có đoạn: "Vì công việc còn bận, tôi chưa có thể gặp cụ để trực tiếp cảm ơn cụ, tôi xin phái người thân tín là ông Huỳnh thay mặt tôi đến hỏi thăm và chúc cụ mạnh khỏe. Nhờ cụ cầu Đức Chúa ban phúc lành cho Tổ quốc và xin cụ nhận lời chào thân ái của tôi"(3).
Xuyên suốt tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết tôn giáo, nhân đạo, nhân văn là xuất phát điểm, từ đó cấu thành đại đoàn kết dân tộc. Chỉ có thể thực hiện đoàn kết được khi có lòng nhân đạo, bao dung, vì lợi ích của Tổ quốc mà gác lại mọi lợi ích cục bộ, vụ lợi hẹp hòi. Với lòng bao dung đó, Người thay mặt Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa nhắn nhủ những đồng bào Công giáo đã di cư vào Nam, rằng những người muốn đi, thì Chính phủ để tự do đi, nhưng khi gặp tai nạn nhiều người muốn trở về, Người an ủi đồng bào yên tâm thờ Chúa và làm ăn, nhân dân và Chính phủ sẵn sàng hoan nghênh và giúp đỡ. Điều này thể hiện sự tôn trọng ý nguyện của đồng bào Công giáo dù họ nhất thời bị kẻ xấu lợi dụng, xúi giục dưới chiêu bài "Chúa đã vào Nam".
Với mọi tôn giáo, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn thể hiện sự tôn trọng và thực hiện bình đẳng tôn giáo. Người khẳng định: Năm ngón tay có ngón dài, ngón ngắn. Nhưng ngắn dài đều hợp lại nơi bàn tay. Trong mấy triệu người cũng có người thế này thế khác, nhưng thế này hay thế khác đều dòng dõi tổ tiên ta... Ta phải nhận rằng đã là con Lạc cháu Hồng thì ai cũng có ít hay nhiều lòng ái quốc. Trong thư gửi đồng bào Công giáo nhân dịp lễ Nô-en (25-12-1950), Người viết: "... bọn thực dân Pháp và bọn can thiệp Mỹ đã làm trái với lòng Đức Chúa, chúng đưa họa chiến tranh hãm hại nhân dân ta. Cho nên,... chúng ta càng phải ghi nhớ lời dạy của Đức Chúa "Phải thương yêu nhau, đùm bọc nhau để chống kẻ hung ác". Kẻ hung ác chính là bọn thực dân Pháp và bọn can thiệp Mỹ... Ngày nay,... đồng bào càng phải vì Đức Chúa, vì Tổ quốc mà đoàn kết chặt chẽ hơn nữa, kháng chiến hăng hái hơn nữa"(4). Ở "Thư gửi Hội Phật tử Việt Nam" (30-8-1947), Người nêu bật sức mạnh đoàn kết và những đóng góp của phật tử cả nước vào sự nghiệp kháng chiến kiến quốc: "Đức Phật là đại từ đại bi, cứu khổ cứu nạn, muốn cứu chúng sinh ra khỏi khổ nạn. Người phải hy sinh tranh đấu, diệt lũ ác ma. Nay đồng bào ta đại đoàn kết, hy sinh của cải xương máu, kháng chiến đến cùng, để đánh tan thực dân phản động, để cứu quốc dân ra khỏi khổ nạn, để giữ quyền thống nhất và độc lập của Tổ quốc. Thế là chúng ta làm theo lòng đại từ đại bi của Đức Phật Thích Ca, kháng chiến để đưa giống nòi ra khỏi cái khổ ải nô lệ"(5).
Hồ Chí Minh còn đưa ra những giải pháp để thực hiện đoàn kết tôn giáo, lấy đoàn kết Lương - Giáo là trọng tâm: xây dựng hệ thống chính trị trong vùng có đồng bào tôn giáo, làm tốt công tác vận động với các chức sắc và tín đồ tôn giáo, tích cực đấu tranh chống bọn đế quốc, phản động lợi dụng tôn giáo chống phá nước ta... Những giải pháp này có ý nghĩa lý luận và thực tiễn to lớn, đến nay vẫn còn nguyên giá trị thời sự, thực sự đem lại sự tự do, bình đẳng về quyền tín ngưỡng, tôn giáo cho mỗi người dân, cũng tức là giúp nhân dân được hưởng một trong những quyền tự do của con người. Điều này đồng nghĩa với việc, tính chất dân chủ của xã hội nước ta đã, đang và sẽ luôn được bảo đảm, phát triển.
(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t 4, tr 9
(2), (3) Hồ Chí Minh, Sđd, t 5, tr 40, tr 28
(4) Hồ Chí Minh, Sđd, t 6, tr 137
(5) Hồ Chí Minh, Sđd, t 5, tr 197
Hoàn thiện và phát triển thị trường bất động sản ở nước ta  (12/01/2008)
Nhìn lại năm đầu tiên của chặng đường mới - là thành viên WTO  (12/01/2008)
Việt Nam nỗ lực đóng góp sức mình, cùng các nước đi đến một thỏa thuận chung với phương châm “tất cả cùng thắng”  (11/01/2008)
Diễn đàn Thương mại và Đầu tư Việt Nam sau một năm gia nhập WTO  (11/01/2008)
Dân là gốc, dân làm chủ - vị trí trung tâm trong tác phẩm "Sửa đổi lối lầm việc" của Chủ tịch Hồ Chí Minh  (11/01/2008)
Hiệp định Pa-ri về Việt Nam: Những bài học ngoại giao  (11/01/2008)
- Quan điểm, chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về công tác tuyên truyền, vận động quần chúng nhân dân - Một số vấn đề đặt ra đối với việc vận dụng, phát triển trong kỷ nguyên mới của đất nước
- Ba đột phá chiến lược trong mô hình tăng trưởng mới của Việt Nam
- Mô hình tổ hợp công nghiệp quốc phòng và việc xây dựng tổ hợp công nghiệp quốc phòng ở Việt Nam trong tình hình mới
- Trách nhiệm xã hội doanh nghiệp trong tiến trình chuyển đổi năng lượng công bằng ở Việt Nam
- Bảo đảm quyền trẻ em trong mô hình chính quyền địa phương 2 cấp: Thuận lợi, thách thức và giải pháp
-
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Cuộc chiến đấu bảo vệ Thành cổ Quảng Trị năm 1972 - khát vọng độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam -
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Chiến thắng Điện Biên Phủ - Bài học lịch sử và ý nghĩa đối với sự nghiệp đổi mới hiện nay -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - Bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Đổi mới tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị “tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả” theo tinh thần định hướng của Đồng chí GS, TS, Tổng Bí thư Tô Lâm