Đổi mới hoạt động của chính quyền cơ sở
Chính quyền cơ sở có vai trò đặc biệt quan trọng trong hệ thống chính trị của nước ta. Đổi mới, hoạt động của chính quyền cơ sở đang là một nhu cầu cấp thiết. Bài viết nhằm góp phần làm rõ vấn đề này ở nước ta hiện nay.
Chính quyền cơ sở
Chính quyền cơ sở - căn cứ cơ bản để xác định là cấp lãnh thổ hành chính thấp nhất nếu tính theo thứ bậc từ trên xuống, đó là chính quyền cấp xã (phường, thị trấn). Về cấu trúc, chính quyền cơ sở gồm hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân (từ đây xin gọi tắt là hội đồng và ủy ban). Tuy nhiên, nếu nhìn nhận vai trò của chính quyền cơ sở theo cấu trúc và mối quan hệ trong hệ thống chính trị nói chung và hệ thống chính trị ở cơ sở nói riêng thì không thể tách vai trò của Đảng và các đoàn thể trong một cấp chính quyền, trong đó vai trò của Đảng (ở cơ sở là đảng bộ xã, phường, thị trấn) lãnh đạo chính quyền là nhân tố tác động quan trọng bảo đảm đến hiệu quả của quản lý xã hội ở cơ sở. Tuy nhiên, ở đây chỉ tập trung nói về nhận thức và đề xuất cải cách cơ quan hành chính và cơ quan đại biểu nhân dân.
Điểm tương đồng chức năng giữa ủy ban và hội đồng ở cơ sở là dù tên gọi khác nhau nhưng đều có chung chức năng và mục tiêu: chấp hành Hiến pháp, quán triệt và thực thi Hiến pháp, luật của Nhà nước và các quyết định của cấp trên. Điều này, nhắc nhở các cơ quan đại biểu của dân ở cơ sở được gọi là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương nhưng không được đặt ra những quy định, quy chế trái với luật pháp của Nhà nước. Nếu có đề ra những quy định gắn với lợi ích của người dân, tiềm năng của địa phương hay mức sống của nhân nhân cũng không được tùy ý mà phải xin ý nguyện chung của tuyệt đại bộ phận trong nhân dân địa phương. Nói cách khác, nghị quyết của hội đồng nhân dân các cấp không phải là luật địa phương, mà là văn bản thể hiện ý chí của nhân dân địa phương mà hội đồng thay mặt nhân dân quyết nghị. Nghị quyết không thay luật mà chỉ là một chương trình phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội riêng biệt mang bản sắc, đặc thù của địa phương.
Hội đồng là cơ quan quyền lực không chỉ ban hành nghị quyết mà còn phải giám sát việc thi hành nghị quyết. Giám sát là một hoạt động mang tính đa chức năng: giám sát hoạt động, đánh giá hoạt động, có chế tài sau khi giám sát, nếu phát hiện những sai sót của cơ quan chấp hành...
Mối quan hệ giữa cơ quan đại biểu và cơ quan hành chính
Hội đồng và ủy ban cùng cấp nói chung và ở cơ sở nói riêng không phải là quan hệ trên - dưới theo thứ bậc. Quan hệ này cũng không phải theo cơ chế quyết định - phụ thuộc, mà là quan hệ chức năng: hội đồng bầu ra ủy ban và một số chức danh của ủy ban là do chức năng quy định. Điều này đã được thể hiện rõ trong Luật Tổ chức nhà nước. Vì thế không thể coi ủy ban là cấp dưới của hội đồng và phải làm theo " ý muốn" của hội đồng. Hội đồng là cơ quan quyền lực, còn ủy ban là cơ quan chấp hành. Chấp hành là chức năng tổ chức quản lý theo luật và theo nghị quyết định hướng. Chấp hành không phải là làm theo. Đây là sự phân biệt cần thiết; bởi, không như thế thì cả hội đồng và ủy ban đều mất tính sáng tạo; hội đồng sẽ dễ dẫn đến quan liêu, còn ủy ban sẽ dễ rơi vào thụ động.
Trong quan hệ chức năng, ủy ban và hội đồng ở cơ sở có các quan hệ không giống nhau. Nếu ủy ban là cơ quan song trùng quan hệ thì hội đồng là cơ quan thuần túy có tính tự quản địa phương. ủy ban theo quy định của pháp luật là cơ quan thực thi Hiến pháp; đồng thời, triển khai nghị quyết của hội đồng cùng cấp ở địa phương. Chấp hành luật pháp nhà nước, địa phương như một đối tượng của điều chỉnh pháp luật có tính chung cho các địa phương trong cả nước; còn triển khai nghị quyết mang tính tự chủ, tự quản và tích cực phát huy tiềm năng riêng có của địa phương mình. Các nghị quyết của mỗi hội đồng vì vậy mang tính tự quản và rất phong phú nếu nó xác định được đúng (tự xác định thế mạnh, tự huy động sức dân và người dân tự giác đóng góp trí tuệ và sức lực, tiềm lực) với sự hỗ trợ của Nhà nước.
Về vị trí của cơ quan hành chính công quyền mà ủy banở cơ sở là một "mắt xích" trong điều kiện hiện nay, đang đặt ra một số vấn đề sau:
Trong điều kiện nhà nước dân chủ, quyền lực, quyền hành có nguồn gốc từ nhân dân thì sự cộng đồng trách nhiệm giữa nhân dân và chính quyền phải được rành mạch. Thực tế hiện nay, trong quy định thì rành mạch, nhưng lại rất trừu tượng, mơ hồ về nhiệm vụ cụ thể. Ví dụ, theo Luật Tổ chức hội đồng nhân dân thì chính quyền được làm mọi việc, liên quan đến mọi bộ phận. Như thế có thể nói, chính quyền vừa không làm hết việc, vừa không bảo đảm chất lượng công việc. Kinh nghiệm các nhà nước tổ chức chế độ dân chủ trước chúng ta hàng thế kỷ cho thấy:
- Cần tiến tới nghiên cứu và có thể vận dụng nguyên lý: Nhà nước chỉ làm những gì người dân chưa được phép làm (như những vấn đề thuộc bí mật quốc gia), hoặc người dân không muốn làm (những việc mang lại hiệu quả, lãi suất thấp).
- Xác định rõ những việc cụ thể cho từng cấp, trong đó có cấp cơ sở. Ví dụ như, thay việc Nhà nước làm trực tiếp bằng việc chỉ quản lý và ban hành hành lang chính sách, kể cả kinh tế.
- Xác định rõ quan hệ giữa thực thi quyền Nhà nước giao với trách nhiệm phục vụ nhân dân. Thực tế ở nước ta vừa qua, do không xác định rõ quan hệ này nên đã có không ít trường hợp gắn quyền với lợi ích cá nhân mà sao nhãng vai trò phục vụ, dẫn đến khiếu kiện, mất dân chủ, rơi vào vi phạm pháp luật.
- Xác định rõ ranh giới giữa chính quyền cơ sở với các đơn vị tự quản ở cơ sở: quan hệ giữa ủy ban nhân dân cấp phường, xã với bộ máy tự quản ở các đơn vị dân cư thuộc các làng (thôn, ấp, bản), các tổ dân phố thuộc các đô thị. Cơ sở để xác định chính là sự phân biệt giữa chính quyền thuộc bộ máy công quyền và đơn vị dân cư có bộ máy tự quản; giữa thực hiện quyền được luật pháp quy định với sự phối hợp thực hiện quyền đó mà không phải "khoán" quyền đó cho đơn vị tự quản.
Một số kiến nghị đổi mới chính quyền cơ sở hiện nay
Đổi mới cách thức, phương pháp, quy trình trong quản lý nhà nước được xác định từ hơn mười năm qua, nhưng chính quyền ở cơ sở chưa được thụ hưởng tương xứng các nội dung của cải cách một cách đồng bộ, hệ thống và kịp thời. Để tiếp tục đổi mới đối với chính quyền cấp cơ sở hiện nay, cần tập trung một số trọng điểm sau :
Thứ nhất, bảo đảm tính thống nhất, nhất quán cải cách trong chương trình cải cách tổng thể. Yêu cầu này cần được chuẩn hóa, hiện đại hóa để bảo đảm: "trên cải cách như thế nào thì dưới cũng tiến hành theo đúng quy trình như thế". Có như vậy, mới đồng bộ, mới là thông suốt. Nếu chính quyền cơ sở chưa được thụ hưởng cải cách nhiều thì người dân cũng chưa thể được thụ hưởng thành quả của cải cáchđó.
Thứ hai, cần xác định chuẩn ngay trong luật hoặc văn bản dưới luật theo hướng: Phân định rành mạch những việc chính quyền phải làm căn cứ theo Hiến pháp, phân cấp và theo nguyên tắc thực hiện đúng chức năng của tổ chức công quyền và tổ chức sản xuất. Muốn vậy, cần có chuyển biến vĩ mô, từ Quốc hội, Chính phủ và các cấp chính quyền bên trên, sao cho: chỉ có những việc cụ thể phải làm, thay cho "việc gì cũng làm".
Chính quyền làm những việc cụ thể thuộc chức năng (ví dụ mở trường công lập cấp tiểu học, hệ thống nhà trẻ bên cạnh các trường tư thục), và từ chối các công việc thuần túy có tính dân dự (như điểm trông giữ xe do phường, hoặc các hợp tác xã dịch vụ quản lý...). Những việc cụ thể thuộc quyền của phường phải được ghi trong luật hoặc văn bản quy phạm dưới luật.
Thứ ba, nghiêm túc thực hiện thủ tục hành chính ở cơ sở. Thủ tục là công việc hằng ngày cần thực hiện. Nhưng cần hiểu cho đúng bản chất để xây dựng thành một trình tự; cần thống nhất trong "cách nghĩ" của đội ngũ cán bộ cơ sở để thống nhất "cách làm". Bên cạnh đó, cần khắc phục tính giản đơn, tùy tiện của người thực thi công vụ (chẳng hạn như, có thể bỏ việc sáng chuyển sang chiều; chiều chuyển sang hôm sau do "bận" việc cá nhân.
Để cải cách và ngăn chặn tình trạng này ở cơ sở cần: Quy định việc thực hiện thủ tục hành chính ở cơ sở; quy định những việc cần thiết phải làm trước, niêm yết công khai, quy định chế tài, kỷ luật đối với những người không thực hiện đầy đủ, nghiêm túc thủ tục; quy định cơ chế kiểm tra của cấp trên (quận, huyện), tự kiểm tra thông qua giám sát của cơ quan đại biểu (hội đồng nhân dân xã, phường, thị trấn). Chủ tịch ủy ban cần gương mẫu thực hiện thủ tục và trực tiếp kiểm tra việc thực hiện thủ tục của công chức; sơ kết, tổng kết việc thực hiện thủ tục để có cải tiến, đổi mới, cập nhật kỹ năng và công nghệ .
Thứ tư, chuẩn hóa trình độ đối với cán bộ xã, phường, thị trấn để thích ứng với tiến bộ xã hội đang diễn ra. Hiện nay, mặt bằng trình độ của người dân ở cơ sở ngày càng cao, các kênh thông tin hằng ngày, hằng giờ tác động đến hiểu biết của người dân; vì vậy, đội ngũ cán bộ cơ sở không thể "đứng ngoài". Đội ngũ này cần được đào tạo lại và được bổ sung bằng những người được đào tạo chính quy, đúng chuyên môn, nghiệp vụ.
Thứ năm, cần từng bước hiện đại hóa công sở hành chính ở cơ sở tương ứng với các bước trang bị phương tiện phục vụ công vụ ở các cấp chính quyền bên trên. Phương tiện cùng với năng lực sẽ từng bước mở rộng các lĩnh vực có thể "nối mạng" với cơ quan quản lý của cấp trên; đồng thời, thay đổi các thao tác quản lý ngày càng được hiện đại hơn.
Thứ sáu, tăng cường công tác đào tạo bồi dưỡng, cập nhật kiến thức quản lý cho cán bộ cơ sở theo hướng: thiết thực; thiếu gì, cần gì học nấy; bồi dưỡng thường xuyên, ngắn hạn. Không nên mở các lớp học dài ngày đối với cán bộ cơ sở vì họ rất "bận bịu" không tập trung tư tưởng để học sẽ gây lãng phí thời gian. Muốn vậy, phải có chiến lược ngay từ "đầu vào" đối với đội ngũ cán bộ cơ sở theo nguyên tắc "hậu bổ".
Thứ bảy, từng bước đầu tư ngân sách cho cơ sở. Tăng cường ngân sách cho cơ sở cùng với nhịp điệu của tăng trưởng kinh tế quốc gia; đồng thời, phải có sự phù hợp với tình hình kinh tế của các địa phương.
Đặc điểm tâm lý với định hướng sinh kế của người dân Đà Nẵng  (04/01/2008)
10 sự kiện quan trọng của Quốc hội trong năm 2007  (04/01/2008)
Mục lục Chuyên đề cơ sở số 12 (12-2007)  (04/01/2008)
Vài nét về cựu Thủ tướng Benazir Bhutto  (03/01/2008)
- Ngành y tế với công tác chăm sóc, bảo vệ và phát huy vai trò người cao tuổi trong giai đoạn hiện nay
- Quan điểm, chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về công tác tuyên truyền, vận động quần chúng nhân dân - Một số vấn đề đặt ra đối với việc vận dụng, phát triển trong kỷ nguyên mới của đất nước
- Ba đột phá chiến lược trong mô hình tăng trưởng mới của Việt Nam
- Mô hình tổ hợp công nghiệp quốc phòng và việc xây dựng tổ hợp công nghiệp quốc phòng ở Việt Nam trong tình hình mới
- Trách nhiệm xã hội doanh nghiệp trong tiến trình chuyển đổi năng lượng công bằng ở Việt Nam
-
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Cuộc chiến đấu bảo vệ Thành cổ Quảng Trị năm 1972 - khát vọng độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - Bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX -
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Chiến thắng Điện Biên Phủ - Bài học lịch sử và ý nghĩa đối với sự nghiệp đổi mới hiện nay -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Đổi mới tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị “tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả” theo tinh thần định hướng của Đồng chí GS, TS, Tổng Bí thư Tô Lâm