Sửa đổi Hiến pháp năm 1992 và cơ chế kiểm soát quyền lực ở Việt Nam

Đào Trí Úc GS, TSKH, Chủ tịch Hội đồng ngành luật học, Đại học Quốc gia Hà Nội
19:23, ngày 04-06-2013
TCCS - Tính thống nhất của quyền lực nhà nước được xác định rất rõ thông qua việc xác định về bản chất xã hội và định hướng, mục tiêu hoạt động của quyền lực nhà nước ở nước ta. Dưới góc độ của cơ chế kiểm soát quyền lực thì điểm chung nhất là việc thực hiện sự kiểm soát quyền lực nhà nước từ phía nhân dân.

Tính thống nhất của quyền lực - cơ sở pháp lý để kiểm soát quyền lực

Ngay từ Hiến pháp năm 1946 - Hiến pháp đầu tiên của nước ta, tính thống nhất về bản chất xã hội của quyền lực nhà nước đã được khẳng định: “Tất cả quyền bính trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt giống nòi, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo”(Điều 1). “Tất cả quyền lực nhà nước đều thuộc về nhân dân” đã tiếp tục được khẳng định tại các bản Hiến pháp sau đó: Điều 4 Hiến pháp năm 1959, Điều 6 Hiến pháp năm 1980, Điều 2 Hiến pháp năm 1992.

Tính thống nhất của quyền lực nhà nước ở nước ta thể hiện và bắt nguồn từ sự thống nhất về định hướng và mục tiêu phát triển đất nước, là sự thể hiện ý chí và lợi ích của nhân dân Việt Nam, dân tộc Việt Nam. Định hướng và mục tiêu chung đó được ghi nhận chính thức và rất rõ ràng trong các bản Hiến pháp. Tại Lời nói đầu, Hiến pháp năm 1946 xác định: “Nhiệm vụ của dân tộc ta (người trích nhấn mạnh) trong giai đoạn này là bảo toàn lãnh thổ, giành độc lập hoàn toàn về kiến thiết quốc gia trên nền tảng dân chủ”. Tại Lời nói đầu, Hiến pháp năm 1959 xác định: “Nhân dân ta (người trích nhấn mạnh) nhất định xây dựng thành công một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh”. Hiến pháp năm 1980 tại Điều 2 quy định: “Sứ mệnh lịch sử của Nhà nước là thực hiện quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động, động viên và tổ chức nhân dân tiến hành đồng thời ba cuộc cách mạng (...); xóa bỏ chế độ nguời bóc lột người; đập tan mọi sự chống đối của bọn phản cách mạng trong nước, mọi hành động xâm lược và phá hoạt của kẻ thù bên ngoài; xây dựng thắng lợi chủ nghĩa xã hội, tiến tới chủ nghĩa cộng sản; góp phần củng cố hòa bình và đẩy mạnh sự nghiệp cách mạng của nhân dân thế giới”. Đến Hiến pháp năm 1992, tại Điều 3, mục tiêu, định hướng chung của việc thực hiện quyền lực nhà nước đã được xác định: “Nhà nước bảo đảm và không ngừng phát huy quyền làm chủ về mọi mặt của nhân dân, thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện.”

Như vậy, tính thống nhất của quyền lực nhà nước được xác định rất rõ thông qua việc xác định sự thống nhất về bản chất xã hội và sự thống nhất về định hướng và mục tiêu hoạt động của quyền lực nhà nước ở nước ta.

Khi nói về hai cơ sở quan trọng này của tính thống nhất của quyền lực nhà nước từ góc độ của cơ chế kiểm soát quyền lực thì điểm chung nhất của chúng là ở những khả năng to lớn trong việc thực hiện sự kiểm soát quyền lực nhà nước từ phía nhân dân. Khả năng đó được xác định từ những yếu tố thuộc về nguyên lý của sự thống nhất quyền lực, đó là:

+ Quyền lực nhà nước thống nhất, bởi chỉ có một chủ thể duy nhất của nó là nhân dân.

+ Nhân dân ủy quyền cho Nhà nước để thực hiện một giới hạn quyền lực do Hiến pháp chế định và giữ cho mình quyền trực tiếp thực hiện quyền lực nhà nước.

+ Từ đó, nhân dân luôn luôn là chủ thể có quyền kiểm soát việc thực thi quyền lực của các thiết chế nhà nước trong các lĩnh vực hoạt động lập pháp, hành pháp, tư pháp.

+ Việc kiểm soát quyền lực từ phía nhân dân được thực hiện trước hết và trên hết bằng việc tuân thủ ý chí và lợi ích của nhân dân trong đường lối, chính sách và pháp luật của Đảng và Nhà nước, trong tổ chức và hoạt động của các thiết chế nhà nước và trong hành vi của công chức nhà nước.

Đây có thể được coi là kết luận rất quan trọng nếu xem xét vấn đề từ góc độ kiểm soát quyền lực. Khái niệm “nhân dân kiểm tra, giám sát, kiểm soát quyền lực nhà nước” bao gồm những yếu tố chủ thể kiểm soát đó là nhân dân; khách thể kiểm soát - đó là Nhà nước và hoạt động của Nhà nước; căn cứ để kiểm soát - đó là ý chí và lợi ích của nhân dân. Trong ba yếu tố đó, khách thể là yếu tố có thể nhìn nhận cụ thể, có tính hữu hình vì đó là những thiết chế cụ thể với những chức năng, nhiệm vụ được xác định, với những hoạt động có thể quan sát được. Nhưng yếu tố chủ thể lại có tính trừu tượng, vì vậy, rất dễ tạo cảm giác rằng, nói quyền lực của nhân dân, quyền lực thống nhất chung chung như vậy thì không có cơ chế để kiểm soát quyền lực.

Khái niệm “nhân dân” dùng để chỉ một cộng đồng của mọi cá nhân trong xã hội tuy có sự khác nhau về thành phần xã hội, như dân tộc, sắc tộc, hoạt động chính trị - xã hội, quan điểm tư tưởng, tôn giáo, giới tính, nghề nghiệp,... nhưng thống nhất lại, vượt lên trên sự khác biệt xã hội để có và thực hiện một ý chí, một định hướng, một mục tiêu phát triển cộng đồng, đất nước. Do vậy, khi nói “ý chí và nguyện vọng của nhân dân” là nói đến các ý chí chung, mục tiêu chung, không phải ý chí và mục tiêu của một hoặc một số thành phần xã hội nào riêng rẽ. Đồng thời, khi nói: “Người đại biểu chịu trách nhiệm trước nhân dân” là nói đến trách nhiệm phải tuân theo và phụng sự ý chí và mục tiêu chung đó. Chính vì vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh khi phát biểu trong Lễ ra mắt của Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (được bầu ra trong cuộc Tổng tuyển cử lịch sử năm 1946) đã nói: “Các đại biểu trong Quốc hội này không phải đại diện cho một đảng phái nào mà là đại diện cho toàn thể quốc dân Việt Nam. Đó là sự đoàn kết tỏ ra rằng lực lượng của toàn dân Việt Nam đã “kết lại thành một khối”(1).

Như vậy, yếu tố chủ thể kiểm soát quyền lực - Nhân dân - sẽ trở nên hiển hiện cụ thể và đầy đủ. Cơ sở, căn cứ của sự kiểm soát quyền lực: ý chí và lợi ích của nhân dân.

Cơ chế phân công và phối hợp quyền lực trong bộ máy nhà nước và khả năng kiểm soát quyền lực của cơ chế đó

Mối quan hệ giữa cơ quan lập pháp và hành pháp

1- Vấn đề giới hạn lập pháp của Quốc hội

Như đã nêu ở trên, tuy Điều 84 của Hiến pháp năm 1992, không như trước đây, đã xác định được hệ thống gồm 14 thẩm quyền của Quốc hội, nhưng trước đó, tại Điều 83, Hiến pháp lại đã phác họa một “chân trời rộng” khác cho Quốc hội: “Quốc hội quyết định những chính sách cơ bản về đối nội và đối ngoại, nhiệm vụ kinh tế - xã hội; quốc phòng, an ninh của đất nước, những nguyên tắc chủ yếu về tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, về quan hệ xã hội và hoạt động của công dân”. Quy định này của Hiến pháp rất trừu tượng, thực chất vẫn có thể hình dung một Quốc hội có toàn quyền. Trong khi đó, như đã nói ở trên, yếu tố có màu sắc tập quyền này không thể phù hợp được với đòi hỏi về sự giới hạn của quyền lực nhà nước, bao gồm tất cả các bộ phận hợp thành quyền lực đó, trong đó có quyền lập pháp, trong một Nhà nước pháp quyền.

Vấn đề đặt ra là, trên thực tế sự thiếu giới hạn đó cũng không phù hợp với khả năng lập pháp của Quốc hội. Đó là lý do giải thích vì sao nhiều đạo luật được ban hành nhưng hiệu lực thi hành thấp và khó đi vào cuộc sống, phải sửa đổi bổ sung nhiều lần trong một thời gian ngắn. Ngoài những lý do khách quan và chủ quan khác, thì lý do thiếu sự giới hạn giữa lập pháp và các hoạt động khác của quyền lực nhà nước, mà cụ thể ở đây là giữa Quốc hội và Chính phủ, là lý do cơ bản. Có thể ví điều đó tựa như “cây to quá ôm không xuể”. Vì thế, nhiều nội dung điều chỉnh của luật đã phải dựa vào cơ chế ủy quyền lập pháp, đã chuyển cho Chính phủ và các bộ, các ngành quy định trong các văn bản quy phạm khác, trong khi chúng ta chưa thực sự có một cơ chế ủy quyền lập pháp đúng nghĩa của nó.

Thêm vào đó, cơ chế kiểm tra các văn bản quy phạm pháp luật qua nhiều năm vẫn chưa hình thành rõ nét và có hiệu quả. Tất cả những yếu tố đó đã hạn chế, thậm chí vô hiệu hóa trên thực tế khả năng kiểm soát quyền lực trên bình diện lập pháp, mặc dù Hiến pháp đã quy định thẩm quyền của Quốc hội là giám sát tối cao việc tuân theo Hiến pháp, luật và nghị quyết của Quốc hội; bãi bỏ các văn bản của Chủ tịch nước, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao và Viện Kiểm sát nhân dân tối cao nếu trái với Hiến pháp, luật và nghị quyết của Quốc hội (Điều 84).

Vì vậy, trong thực tiễn hoạt động của mình, Chính phủ đã rất “rộng tay” trong việc chủ động thực hiện các thẩm quyền mà Hiến pháp đã quy định cho một cơ quan được coi là cơ quan “chấp hành của Quốc hội”, cơ quan “hành chính nhà nước cao nhất”. Đó là chưa kể càng về sau, sự “chủ động” đó của thực tiễn hoạt động của Chính phủ đã được thể chế hóa bởi điểm b, khoản 2, Điều 56, Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Theo đó, đối với những lĩnh vực quản lý nhà nước có quan hệ xã hội mới phát sinh chưa có luật, pháp lệnh hoặc nghị quyết của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội điều chỉnh, hoặc chưa có điều kiện xây dựng thành luật, pháp lệnh, nghị quyết của các cơ quan nói trên thì Chính phủ xin ý kiến của Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành nghị định để điều chỉnh. Đây thường được gọi là “Nghị định không đầu”. Và trên thực tế, trong nhiều năm qua, đã ra đời rất nhiều “nghị định không đầu” ấy trong nhiều lĩnh vực quản lý nhà nước và quản lý kinh tế.

2- Vấn đề địa vị pháp lý của Chính phủ trong mối quan hệ với Quốc hội

Khi nói đến Chính phủ, Hiến pháp hiện hành quy định “Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội” và là “cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của nước CHXHCN Việt Nam” (Điều 109, Hiến pháp năm 1992).

Về mặt pháp lý, Hiến pháp đã đặt Chính phủ vào vị thế một cơ quan thụ động với vai trò chấp hành và thi hành. Khái niệm “cơ quan chấp hành của Quốc hội” không thể làm rõ vị trí, thẩm quyền của một cơ quan hành pháp vì nói đến hành pháp là nói đến một phạm vi, một nhánh quyền lực nhà nước. Điều 2 của Hiến pháp, bằng việc xác lập nguyên tắc về sự phân công và phối hợp quyền lực, đã đặt ra nền tảng cho sự độc lập và phối hợp quyền lực. Đó là sự phát triển lên một mức cao của tính pháp quyền trong tổ chức quyền lực ở nước ta. Chỉ có thể có sự “phân công” và sự “phối hợp” khi các phạm vi của quyền lực là độc lập. Vì vậy, mối quan hệ như hiện nay giữa Quốc hội và Chính phủ, cơ quan hành chính nhà nước, cơ quan chấp hành của Quốc hội, đã dẫn đến hệ quả của sự phân công quyền lực không rõ ràng và cũng vì thế, không thể bảo đảm sự phối hợp theo đúng nghĩa của nó. Và lại vì thế, Chính phủ theo Hiến pháp của Việt Nam hiện hành chưa thực sự là một cơ quan hành pháp đúng nghĩa của khái niệm đó.

Về mặt hiến định, cần phải thay đổi để Chính phủ là cơ quan thực hiện quyền hành pháp, lãnh đạo hệ thống hành chính nhà nước, có quyền chủ động trong việc hoạch định chính sách trên cơ sở pháp luật và chịu trách nhiệm trước nhân dân, trước Hiến pháp và pháp luật chứ không chỉ chịu trách nhiệm trước Quốc hội và càng không thể trước Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Trong lĩnh vực lập pháp, sự phối hợp giữa Quốc hội với Chính phủ ở nước ta thường được lý giải bởi con số các dự án luật do Chính phủ trình Quốc hội. Hiện nay, trên 90% số các dự án luật, pháp lệnh là do Chính phủ trình Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Điều đó đã trở thành thước đo trong hoạt động xây dựng pháp luật. Sự phối hợp trong hoạt động lập pháp là điều kiện quan trọng để Chính phủ có thể chủ động đề xuất chính sách, đưa chính sánh lên thành luật. Đây cũng là con đường quan trọng để Quốc hội có thể đứng trên lập trường của cơ quan đại diện cho nhân dân kiểm tra hoạt động của Chính phủ, kiểm tra định hướng hành động và sự thể hiện trách nhiệm và năng lực của cơ quan hành pháp trước nhân dân.

Tuy nhiên, để làm được việc đó, Hiến pháp chưa tạo ra được một cơ chế đánh giá trước và sau dự thảo dự án luật. Vì vậy, chất lượng dự án luật, thời hạn của kế hoạch xây dựng pháp luật, yêu cầu về bảo đảm tính đồng bộ, tính hệ thống, tính hợp hiến của các văn bản pháp luật là những vấn đề nổi cộm hiện nay trong hoạt động xây dựng pháp luật ở nước ta. Nhiều đạo luật đã tạo những khoảng trống điều chỉnh dẫn đến sự tùy tiện giải thích và tùy tiện bổ sung không đúng thẩm quyền trong quá trình áp dụng pháp luật từ phía các cơ quan hành pháp.

Để khắc phục tình trạng trên đây, ngoài việc tạo ra một cơ chế kiểm soát văn bản hữu hiệu, Hiến pháp cần xác định một giới hạn về phạm vi lập pháp của Quốc hội và quyền điều hành của Chính phủ. Kinh nghiệm của nhiều quốc gia trên thế giới cho thấy rằng, lĩnh vực thẩm quyền lập pháp của quốc hội gắn liền với những giá trị căn bản nhất và ổn định nhất của đời sống xã hội, của quốc gia, của cá nhân con người mà nhà nước không thể thoái thác trách nhiệm bởi bất kỳ một lý do nào.

Nếu xét từ góc độ kiểm soát quyền lực thì việc xác định được giới hạn hoạt động lập pháp của Quốc hội và quyền điều hành của Chính phủ sẽ tạo cơ sở cho sự xác định các mặt sau đây trong mối quan hệ quyền lực.

Một là, đó sẽ là giới hạn để Quốc hội - cơ quan lập pháp, thể hiện trách nhiệm của mình trong việc đưa ý chí của nhân dân, chủ trương, đường lối của Đảng lên thành luật. Có thể nói rằng, việc điều chỉnh pháp luật không kịp thời các quan hệ xã hội hiện hữu là biểu hiện của sự quan liêu trên bình diện lập pháp trước nhu cầu bức xúc về một trật tự pháp luật, một môi trường pháp lý - cơ sở đầu tiên cho sự an toàn pháp lý của nhân dân và sự phát triển bền vững của đất nước. Đó cũng là biểu hiện trách nhiệm của Nhà nước trong việc phản ánh và bảo vệ lợi ích chân chính của các nhóm, các giai tầng xã hội.

Hai là, từ phía cơ quan hành pháp, việc xác định một ranh giới lập pháp rõ ràng là điều kiện quan trọng để hoạt động hành pháp không “lấn sân” hoạt động lập pháp. Bởi vì, như đã nói ở trên, phần cơ bản của phạm vi thẩm quyền lập pháp là liên quan đến các quyền con người, quyền công dân, các lợi ích cơ bản nhất của quốc gia, do đó, sự “lấn sân” trong hoạt động lập pháp từ phía cơ quan hành pháp không đơn thuần chỉ là sự vi phạm thẩm quyền mà còn là nguy cơ của sự vi phạm các quyền con người, quyền công dân, các lợi ích quốc gia, dân tộc.

Ba là, giới hạn rõ ràng của quyền lập pháp sẽ là điều kiện để đánh giá tính chủ động và hiệu quả của hoạt động hành pháp cũng như tính hợp pháp của các quyết định và hành vi trong lĩnh vực hành pháp.

Những phân tích trên đây cho thấy rằng, Hiến pháp hiện hành của Việt Nam chưa tạo ra được một cơ chế phân công và phối hợp thật sự đúng đắn cho hoạt động của hai bộ phận quyền lực vốn có quan hệ mật thiết với nhau nhưng cũng dễ có sự “va chạm” bởi bản tính và chức năng của chúng. Đó chính là một sự bất cập trên bình diện điều chỉnh của Hiến pháp. Trên thực tế, sự bất cập pháp lý đó đã tạo kẽ hở cho sự tùy tiện, thiếu trách nhiệm và khó xác định trách nhiệm trong quá trình thực thi quyền lực nhà nước.

Mối quan hệ giữa cơ quan lập pháp và tư pháp, giữa hành pháp và tư pháp

Một trong những điểm đặc sắc khi nói về cơ chế tổ chức và vận hành quyền lực nhà nước ở Việt Nam từ năm 1945 đến nay là việc ghi nhận trên bình diện Hiến pháp và pháp luật (tức là về mặt pháp lý) sự độc lập của tòa án, của các cơ quan tư pháp.

Hiến pháp năm 1946 đã đưa ra một sự xác định cụ thể về khái niệm các cơ quan tư pháp. Theo đó, cơ quan tư pháp của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa gồm có: Tòa án tối cao, các tòa phúc thẩm, các tòa án đệ nhị cấp và sơ cấp (Điều 63). Đến Hiến pháp năm 1959 và tiếp theo đó là các bản Hiến pháp năm 1980, năm 1992 thì đã không còn khái niệm cơ quan tư pháp và xuất hiện hai loại cơ quan là tòa án nhân dân và viện kiểm sát nhân dân, trong đó các tòa án được xác định là những cơ quan xét xử. Chính sự thay đổi này của Hiến pháp đã làm phát sinh sự tranh luận chưa đến hồi kết về khái niệm cơ quan tư pháp. Vấn đề trở nên bức xúc không chỉ trên bình diện lý luận hàn lâm mà trước hết là về mặt thực tiễn tổ chức và hoạt động của các cơ quan có liên quan, như tòa án, viện kiểm sát, các cơ quan điều tra hình sự, các cơ quan thi hành án. Thực tiễn tổ chức và hoạt động của các cơ quan này đã mặc nhiên đưa tất cả các cơ quan đó vào dưới một cái tên chung là các cơ quan tư pháp. Bằng chứng là Nghị quyết số 49/NQ/TW, ngày 2-6-2005, của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đã đề ra những định hướng và giải pháp cải cách các cơ quan tư pháp và nội dung nhiệm vụ của một loạt các cơ quan kể trên đã được đưa vào hệ thống các cơ quan tư pháp.

Trong khi đó có thể thấy một mặt khác của vấn đề là ngoài sự gắn kết với nhau bởi lĩnh vực hoạt động và mục tiêu hoạt động, các cơ quan, như tòa án, viện kiểm sát, thi hành án có phương thức tổ chức, hoạt động và cơ chế vận hành rất khác nhau. Tòa án là các cơ quan xét xử; hoạt động của tòa án được chế định bởi một hệ thống thủ tục nghiêm ngặt và có sứ mệnh là chỗ dựa đáng tin cậy của nhân dân trong sự tìm kiếm và bảo vệ công lý. Tòa án có vị trí độc lập trong mối quan hệ với cơ quan lập pháp và cơ quan hành pháp. Trong khi đó, các cơ quan khác đều ít nhiều có mối liên hệ chặt chẽ với cơ quan hành pháp, nếu không nói rằng chính chúng là các cơ quan hành pháp, nếu xét theo bản chất và chức năng, nhiệm vụ trong hệ thống bộ máy nhà nước. Vì vậy, từ nhiều góc độ, trong đó có yêu cầu về sự lãnh đạo của Đảng đối với các cơ quan tòa án, viện kiểm sát, điều tra, thi hành án, cũng như từ góc độ về sự giám sát, kiểm tra, đánh giá hiệu quả hoạt động của các cơ quan đó, đều có nhiều điểm khác nhau.

Tại lần sửa đổi năm 2001 của Hiến pháp năm 1992, Viện Kiểm sát nhân dân được xác định là cơ quan “thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp” (Điều 137). Nếu với tính cách là một cơ quan tư pháp, chức năng của Viện Kiểm sát trong việc giám sát hoạt động của các cơ quan tư pháp khác mà trước hết là tòa án là thiếu căn cứ. Sự không rõ ràng trong các quy định này có thể dẫn đến những sự thiếu nhất quán và thiếu chặt chẽ của quá trình sử dụng quyền lực nhà nước. Kể từ Hiến pháp năm 1946 đến nay, tòa án nhân dân ở nước ta đã trải qua những cách thức hình thành khác nhau. Theo Hiến pháp 1946, tất cả các thẩm phán đều do Chính phủ bổ nhiệm. Điều đó gần như được lặp lại trong thời kỳ Hiến pháp năm 1992 đến nay với sự bổ sung thẩm quyền bổ nhiệm tất cả thẩm phán của Chủ tịch nước, rồi sau đó là thẩm quyền của Chủ tịch nước chỉ bổ nhiệm thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, còn thẩm quyền của Bộ trưởng Tư pháp là bổ nhiệm các thẩm phán khác mà hiện nay thẩm quyền đó thuộc về Chánh án Tòa án nhân dân tối cao. Hiến pháp năm 1959 và Hiến pháp năm 1980 đã quy định chế độ thẩm phán bầu.

Có thể thấy rằng, “hành trình” của chế định hình thành quyền tư pháp thể hiện một sự tìm tòi những tiêu chí cho sự rõ ràng về bản chất của hoạt động tư pháp với tính cách là một bộ phận, một “nhánh” quyền lực nhà nước, tìm tòi về những tiêu chí cần và đủ cho sự độc lập của tòa án và sự phối hợp và kiểm soát trong quá trình thực hiện quyền lực nhà nước nhưng vẫn tỏ ra bất cập và nếu xét theo lô-gic những điều đó, thậm chí chưa thể vượt qua được giá trị của Hiến pháp năm 1946. Vì lẽ:

Thứ nhất, theo bản Hiến pháp này, cơ quan tư pháp được khẳng định duy nhất là các tòa án. Nói khác đi, theo đó, tư pháp là xét xử.

Thứ hai, Hiến pháp năm 1946 quy định rõ ràng rằng, trong khi xét xử, các viên thẩm phán chỉ tuân theo pháp luật, các cơ quan khác không được can thiệp (Điều 69).

Thứ ba, Hiến pháp năm 1946 đã chế định rõ rằng thẩm phán do Chính phủ bổ nhiệm (Điều 64). Ở đây cần nhớ lại rằng, thành phần Chính phủ bao gồm Chủ tịch nước, Phó Chủ tịch nước và nội các (Thủ tướng và các bộ trưởng). Như vậy, có thể thấy rất rõ một vế của cơ chế “kiểm soát và cân bằng” trong mối quan hệ giữa hành pháp và tư pháp...

Chế độ tập quyền xã hội chủ nghĩa của thời kỳ phát triển sau đó của Hiến pháp nước ta đã in dấu ấn rõ nét trong mối quan hệ giữa cơ quan lập pháp và cơ quan tư pháp. Nếu Hiến pháp năm 1946 khẳng định một cách mạnh mẽ như đã nêu trên về vị trí của cơ quan tư pháp thì Hiến pháp về sau này đã đưa ra một quy định hoàn toàn theo hướng tạo sự giám sát đối với tòa án từ phía cơ quan đại diện: “Tòa án nhân dân tối cao chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc hội, trong thời gian Quốc hội không họp thì chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Các tòa án nhân dân địa phương chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước hội đồng nhân dân địa phương” (Điều 104 Hiến pháp năm 1959, Điều 136 Hiến pháp năm 1980, Điều 135 Hiến pháp năm 1992).

Chính vì theo lô-gic của quan điểm tập quyền - tính trội của lập pháp, của cơ quan đại diện mà kể cả trong Hiến pháp năm 1946 và từ đó cho đến nay, ở Việt Nam, trong suốt mấy chục năm qua, chưa có khái niệm về sự xem xét lại luật của Quốc hội bởi tòa án; đối với các văn bản của các cơ quan hành pháp thì chỉ có việc xét xử và phán quyết của tòa hành chính đối với các văn bản hành chính cá biệt mà không phải là các văn bản quy phạm và cũng chỉ mới bắt đầu không lâu từ cuối thế kỷ trước với tất cả những sự khó khăn và hạn chế của nó./.

------------------------------------------

(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 4, tr. 189