Nâng cao hiệu quả thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài
Thực trạng và vai trò của nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
Năm 2012, nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đăng ký vào Việt Nam đạt 13,01 tỷ USD, trong đó vốn giải ngân là 10,46 tỷ USD.
Lũy kế từ năm 1988 đến 2012, đã có 98 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam với khoảng gần 14.500 dự án, tổng số vốn đăng ký là 213,6 tỷ USD, vốn thực hiện đạt xấp xỉ 100 tỷ USD; số dự án giải thể và hết hạn là 1.901 dự án (tương ứng với 40 tỷ USD). Trong số các dự án còn hiệu lực, số dự án có vốn đăng ký trên 1 tỷ USD là 26 dự án (tương ứng với 66 tỷ USD). Xét tỷ lệ trên GDP, Việt Nam thu hút FDI lớn hơn 5 lần so với Trung Quốc hay Ấn Độ trong 5 năm qua.
Khu vực doanh nghiệp FDI là khu vực luôn năng động và có đóng góp đáng kể trong sự phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam. Trong giai đoạn 2001 - 2005, nguồn vốn FDI đã đóng góp 16% tổng vốn đầu tư toàn xã hội và tỷ trọng này tăng lên 25% trong giai đoạn 2006 - 2012. Vai trò của nguồn vốn FDI trong năm 2012 cũng như trong hơn 25 năm qua thể hiện ở một số mặt sau:
Góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế và nâng cao năng lực sản xuất công nghiệp. Yêu cầu dịch chuyển nền kinh tế không chỉ là đòi hỏi của bản thân nội tại nền kinh tế, mà còn là đòi hỏi của xu hướng quốc tế hóa đời sống kinh tế đang diễn ra mạnh mẽ. Đầu tư trực tiếp nước ngoài là một bộ phận quan trọng của hoạt động kinh tế đối ngoại, thông qua quá trình này Việt Nam tham gia ngày càng nhiều vào quá trình phân công lao động quốc tế. Để hội nhập vào nền kinh tế thế giới, cơ cấu kinh tế Việt Nam những năm qua đã có sự chuyển biến mạnh mẽ theo hướng tích cực. Tỷ trọng ngành nông nghiệp từ chỗ chiếm 80% trong năm 1988, giảm xuống còn khoảng 22% trong năm 2012, công nghiệp và dịch vụ chiếm 78%. Tốc độ tăng trưởng công nghiệp của khu vực FDI luôn cao hơn tốc độ tăng trưởng công nghiệp chung của cả nước. Hiện, khu vực này đóng góp khoảng 45% giá trị sản xuất công nghiệp. Nhiều tỉnh như Vĩnh Phúc, Bình Dương, Đồng Nai còn đóng góp khoảng 65% - 70%.
Đóng góp đáng kể vào thu ngân sách và tạo việc làm. Trong 5 năm 2006 - 2010, thu ngân sách trong khối doanh nghiệp FDI đạt hơn 10,5 tỷ USD, tăng bình quân trên 20%/ năm. Trong năm 2011, thu nộp ngân sách của khu vực FDI (không kể thu từ dầu thô) đạt 3,5 tỷ USD. Theo số liệu tại Bảng xếp hạng V1.000 - Top 1.000 doanh nghiệp đóng thuế thu nhập lớn nhất Việt Nam năm 2011, có tới hơn 30% trong số này là các doanh nghiệp FDI với 20.000 tỷ đồng thuế thu nhập.Khảo sát của Tổ chức Xúc tiến mậu dịch Nhật Bản (Jetro) cho thấy, các nhà đầu tư Nhật đánh giá Việt Nam là điểm đến hấp dẫn do chi phí sản xuất thấp, lực lượng lao động dồi dào và chính trị ổn định. Việt Nam cũng là nước có chi phí rẻ hơn và ổn định hơn so với Thái Lan, Trung Quốc.
Các dự án FDI đã tạo ra nhiều chỗ làm việc mới, góp phần làm giảm đáng kể nạn thất nghiệp. Tính đến cuối tháng 11-2012, khu vực FDI tạo ra hơn 2,5 triệu việc làm và tiền lương lao động của khu vực này luôn cao hơn mức trung bình cả nước.
Đóng góp quan trọng vào kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam và tham gia mở rộng thị trường quốc tế. Kim ngạch xuất khẩu của khu vực FDI năm 2012 đạt 73,4 tỷ USD, tăng 33,2% so với cùng kỳ năm ngoái và chiếm 64% tổng giá trị xuất khẩu của cả nước.
Đóng góp của các doanh nghiệp FDI càng thể hiện rõ khi có nhiều mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu tăng vọt, như máy vi tính, sản phẩm và linh kiện điện tử,... góp phần đưa Việt Nam hội nhập sâu rộng vào đời sống kinh tế quốc tế và mở rộng quan hệ đối ngoại.
Đóng góp vai trò nổi bật trong đổi mới và chuyển giao công nghệ ở Việt Nam. Lợi ích quan trọng mà FDI mang lại đó là công nghệ khoa học hiện đại, kỹ xảo chuyên môn và trình độ quản lý tiên tiến. Những năm qua, hầu hết các lĩnh vực có vốn FDI đều cải thiện đáng kể trình độ kỹ thuật công nghệ của mình. Đầu tư nước ngoài đã không những tác động trực tiếp và gián tiếp đến hoạt động đổi mới công nghệ, chuyển giao công nghệ ở Việt Nam mà còn góp phần vào việc tăng cường cơ sở vật chất cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Một số vấn đề đặt ra đối với khu vực doanh nghiệp FDI
Mặc dù hoạt động thu hút nguồn vốn FDI đã đạt được những kết quả khả quan và có những đóng góp nhất định đối với nền kinh tế, nhưng khu vực doanh nghiệp FDI vẫn bộc lộ nhiều hạn chế ở một số mặt sau:
Chuyển giá để trốn thuế. Theo số liệu của Bộ Tài chính, có đến 20% - 30% trong tổng số doanh nghiệp FDI đang hoạt động kê khai có kết quả kinh doanh lỗ liên tiếp trong 2 - 3 năm, thậm chí 5 năm. Đặc biệt, ở khu vực phía Nam, nơi tập trung 2/3 số doanh nghiệp FDI của cả nước, tình trạng này xảy ra nhiều nhất. Nghịch lý ở chỗ, dù lỗ triền miên, nhưng các doanh nghiệp đó vẫn liên tục mở rộng sản xuất, kinh doanh. Đây là những dấu hiệu bất bình thường.
Theo nhận định của nhiều chuyên gia kinh tế, các doanh nghiệp FDI này đã lợi dụng việc chuyển giá để gian lận, trốn thuế. Các doanh nghiệp này đã dùng nhiều phương thức khác nhau để trốn tránh các khoản thuế, phí thông qua việc báo lỗ trong hoạt động kinh doanh, sau đó chuyển lợi nhuận về công ty mẹ ở nước ngoài. Phổ biến nhất là việc kê giá nguyên liệu đầu vào rất cao, đồng thời tìm mọi cách khai tăng chi phí quảng cáo, khuyến mãi nhằm triệt tiêu lợi nhuận. Ngoài ra, để biến lãi thành lỗ thông qua hình thức chuyển giá, các doanh nghiệp FDI còn liên kết thành từng nhóm, thông qua đó các đơn vị này tự dàn xếp giá với nhau qua các giao dịch liên kết nhằm tìm kiếm thêm lợi nhuận mà không phải bỏ thêm vốn hay mở rộng sản xuất.
Hạn chế trong chuyển giao công nghệ. Các nhà đầu tư không mấy mặn mà trong việc chuyển giao những công nghệ tiến tiến nhất. Điều này cũng có thể giải thích: Một là, dưới tác động của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật nên máy móc công nghệ nhanh chóng trở thành lạc hậu. Vì vậy họ thường chuyển giao những máy móc lạc hậu cho các nước nhận đầu tư để đổi mới công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm của mình. Hai là, nhiều nước đi trước chúng ta sau một thời gian sử dụng công nghệ trung bình, tiêu tốn nhiều lao động thì nay với giá của lao động tăng lên những công nghệ này trở nên không phù hợp. Vì vậy, họ chuyển giao những công nghệ này cho các nước kém phát triển hơn như chúng ta.
Chưa kể, trình độ lao động của chúng ta cũng không tương xứng để tiếp nhận công nghệ mới. Điều này thể hiện ở con số của Bộ Kế hoạch và Đầu tư đưa ra, đó là chỉ có 40% lao động ở khu vực này qua đào tạo, còn lại là lao động phổ thông. Nhiều doanh nghiệp FDI thành lập cơ sở dạy nghề riêng, nhưng chủ yếu vẫn là hướng tới lợi nhuận của họ. Các lao động chỉ được đào tạo một phần để phụ trách một khâu trong dây chuyền.
Giá trị gia tăng tạo ra thấp. Các doanh nghiệp FDI ở Việt Nam chủ yếu chỉ thực hiện các khâu lắp ráp vì vậy góp rất ít giá trị vào sản phẩm cuối cùng trước khi xuất khẩu. Cơ cấu hàng xuất khẩu của Việt Nam vẫn chủ yếu là các mặt hàng có giá trị gia tăng thấp, như dệt may, nông thủy sản, thực phẩm,... trong khi các mặt hàng đòi hỏi công nghệ cao, như linh kiện ô-tô, đồ điện tử thì rất ít. Theo kết quả điều tra của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI), tỷ lệ các doanh nghiệp FDI hoạt động trong các lĩnh vực giá trị gia tăng cao ít (65% doanh nghiệp FDI hoạt động ở Việt Nam thuộc ngành sản xuất có giá trị gia tăng thấp, chỉ có khoảng 5% doanh nghiệp FDI hoạt động trong những ngành sản xuất có công nghệ hiện đại, 5% hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ khoa học - công nghệ, 3,5% trong lĩnh vực bảo hiểm, tài chính, đòi hỏi kỹ năng quản lý hiện đại, trình độ lao động cao).
Tác động lan tỏa của khu vực FDI chưa nhiều, giá trị gia tăng thấp. Điều này thể hiện rõ ở việc công nghiệp phụ trợ của Việt Nam không phát triển, sự liên kết giữa các doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp FDI không rõ nét. Các doanh nghiệp FDI Việt Nam quy mô tương đối nhỏ, lợi nhuận thấp, chủ yếu thầu phụ cho các công ty đa quốc gia lớn hơn, do đó thường nằm trong khâu thấp nhất của giá trị sản phẩm.
Cũng theo điều tra của VCCI, doanh nghiệp FDI nhập khẩu tới 57,5% số hàng hóa, dịch vụ trung gian từ nước ngoài; chỉ có 40% được mua trong nước. Sản phẩm của doanh nghiệp FDI chủ yếu để xuất khẩu. Điều này thể hiện sự thiếu liên kết với khu vực kinh tế trong nước, hạn chế hiệu quả lan tỏa về tiếp thu công nghệ, kinh nghiệm và cải thiện năng suất.
Nhiều dự án giải ngân chậm. Tỷ lệ giải ngân so với vốn đăng ký trong giai đoạn 2006 - 2011 như sau: năm 2006 là 33%; 2007 - 38%; 2008 - 18%; 2009 - 50%; 2010 62%; 2011 - 80%. Trong năm 2012, tỷ lệ giải ngân đạt 80,4%. Như vậy, tuy số vốn đầu tư ngày càng tăng song vốn thực hiện trên thực tế còn thấp. Ngoài các nguyên nhân khách quan, như do khủng hoảng kinh tế, nhiều dự án đang trong quá trình đầu tư,... thì còn có nguyên nhân từ phía các nhà đầu tư, như không đủ năng lực tài chính, giữ đất chờ cơ hội hoặc bán dự án kiếm lời...
Cơ cấu bất hợp lý. Vốn FDI chủ yếu tập trung vào những ngành có khả năng sinh lời cao, như khai thác tài nguyên khoáng sản, dầu khí, công nghiệp nặng... với khoảng 60% tổng vốn đăng ký. Tỷ lệ vốn đầu tư vào dịch vụ chỉ chiếm khoảng 38% vốn đăng ký, chưa đáp ứng yêu cầu của phát triển kinh tế theo hướng hiện đại. Còn trong lĩnh vực nông nghiệp, tuy đã có những chính sách ưu đãi lớn nhưng do số dự án và vốn đăng ký ít, nên tỷ lệ vốn đầu tư có xu hướng giảm dần (từ 8% trong tổng số vốn đăng ký năm 2001 xuống còn 7,4% năm 2006, 3% năm 2008 và đến nay chỉ còn khoảng 1%).
Cơ cấu FDI theo địa bàn cũng thể hiện sự mất cân đối. Các dự án FDI chủ yếu tập trung ở những địa phương có điều kiện kinh tế - xã hội thuận lợi (5 tỉnh dẫn đầu thu hút FDI của cả nước là TP. Hồ Chí Minh, Bà Rịa - Vũng Tàu, Hà Nội, Đồng Nai và Bình Dương chiếm tới gần 60% tổng vốn đăng ký). Hệ quả này đã góp phần làm gia tăng khoảng cách giữa các vùng, miền về trình độ phát triển và thu nhập.
Bên cạnh những hạn chế nêu trên, nhiều doanh nghiệp FDI vẫn còn thiếu trách nhiệm trong bảo vệ môi trường, tình trạng nước thải và các chất thải khác không được xử lý vẫn tiếp diễn ở nhiều khu công nghiệp.
Nguyên nhân chủ yếu của những hạn chế nêu trên, một mặt, về phía các doanh nghiệp FDI khi đi vào hoạt động luôn đặt mục tiêu lợi nhuận lên hàng đầu, còn lợi ích của nước sở tại phụ thuộc vào khả năng tiếp nhận cũng như các chính sách liên quan; mặt khác, công tác quản lý cũng còn nhiều vấn đề. Những năm qua, để thu hút nguồn vốn FDI chúng ta đã áp dụng những chính sách thu hút đầu tư dễ dãi tạo điều kiện cho những dự án công nghệ thấp, sử dụng chủ yếu nguồn lợi tài nguyên, lao động giá rẻ vào Việt Nam. Ngoài ra, việc buông lỏng trong kiểm tra, giám sát dẫn đến nhiều hiện tượng gian lận, như chuyển giá, trốn thuế; không bảo đảm điều kiện và an toàn lao động cho công nhân; gây ô nhiễm môi trường;...
Một số giải pháp nâng cao hiệu quả thu hút nguồn vốn FDI
Để thu hút một cách hiệu quả nguồn vốn này, góp phần tích cực vào quá trình chuyển đổi mô hình tăng trưởng, tái cơ cấu nền kinh tế, trong thời gian tới cần tập trung vào một số giải pháp sau:
Một là, từ nhận thức đến các chính sách phải thống nhất và kiên quyết thu hút FDI trên cơ sở lựa chọn những dự án có chất lượng, hàm lượng công nghệ cao và không gây ô nhiễm môi trường. Vấn đề chất lượng dự án, chất lượng dòng vốn đầu tư nước ngoài đã được đặt ra ngay từ thời điểm bắt đầu mở cửa thu hút đầu tư. Tuy nhiên, trong giai đoạn đầu, do thiếu vốn đầu tư cho các ngành, nghề, lĩnh vực, chúng ta chủ trương đẩy mạnh thu hút đầu tư vào mọi lĩnh vực và với mọi quy mô. Nhưng trong giai đoạn hiện nay, chúng ta cần có một cách nhìn, cách tư duy mới.
Các chính sách ưu đãi, kêu gọi đầu tư cần có định hướng, có mục đích cụ thể theo hướng khuyến khích đầu tư vào các ngành công nghệ cao; tốn ít năng lượng, và bảo đảm môi trường; có năng suất và sức cạnh tranh; bảo đảm lợi ích quốc gia và từng địa phương; các chính sách khuyến khích sử dụng người Việt Nam giữ các vị trí quản lý và chuyên môn chủ chốt,...
Hai là, tăng cường kiểm tra, giám sát các dự án FDI. Đối với công tác quản lý, trước hết, cần tăng cường kiểm tra, giám sát, để hạn chế các dự án vào các lĩnh vực phi sản xuất, lĩnh vực làm gia tăng nhập siêu, sử dụng không hiệu quả nguồn tài nguyên, khoáng sản, đất đai, các dự án tiêu tốn năng lượng, gây ô nhiễm môi trường. Kiên quyết thu hồi giấy phép đầu tư những dự án chưa triển khai nhưng đã quá thời hạn quy định mà chủ đầu tư không có năng lực tài chính; những dự án không phù hợp với định hướng mới, như hạn chế về công nghệ, tiêu tốn năng lượng, gây ô nhiễm môi trường,...
Bên cạnh đó, cần có những biện pháp kiểm soát chặt chẽ hành vi buôn gian, bán lận gây tổn thất cho xã hội. Một mục tiêu cũng rất quan trọng, đó là phải nâng cao hiệu quả kiểm tra, giám sát các luồng vốn vào - ra trên cơ sở xây dựng cơ sở dữ liệu về dòng vốn FDI kịp thời, đáp ứng yêu cầu của công tác phân tích, dự báo và hoạch định chính sách.
Ba là, nghiên cứu xây dựng bộ chỉ tiêu đánh giá FDI hiệu quả ở Việt Nam theo các chỉ tiêu, như năng suất lao động, hiệu quả sử dụng vốn và sức lan tỏa của các dự án này đối với nền kinh tế. Việc xây dựng bộ chỉ tiêu này là cần thiết, phù hợp, giúp các nhà hoạch định chính sách có cái nhìn rõ, cụ thể hơn đối với dòng vốn này, trên cơ sở đó có những biện pháp quản lý và sử dụng hiệu quả hơn.
Bốn là, công khai, minh bạch và từng bước hoàn thiện các chính sách, pháp luật liên quan đến lĩnh vực đầu tư. Nhà nước cần sớm hoàn chỉnh hệ thống pháp lý chung về kinh tế, minh bạch và công khai hóa các thông tin cho các nhà đầu tư; tiếp tục thể chế hóa các luật đã ban hành để nâng cao khả năng cạnh tranh của môi trường đầu tư; rà soát, sửa đổi và bổ sung các chính sách, pháp luật để thay đổi hoặc loại bỏ các điều kiện áp dụng ưu đãi đầu tư không phù hợp với cam kết của Việt Nam khi gia nhập WTO, các quy định của Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA), Hiệp hội Châu Á - Thái Bình Dương (APEC)...; đẩy mạnh công tác cải cách thủ tục hành chính, giảm thiểu những rào cản đối với các nhà đầu tư nước ngoài, kiên quyết chống các biểu hiện quan liêu, tham nhũng...; sửa đổi Luật Đất đai theo hướng tạo điều kiện hơn cho doanh nghiệp FDI thông qua việc bổ sung và hoàn chỉnh các quy định liên quan tới thế chấp quyền sử dụng đất.
Năm là, nâng cao hiệu quả công tác xúc tiến đầu tư nước ngoài. Để nâng cao hiệu quả thu hút đầu tư nước ngoài, cần cải tiến công tác xúc tiến đầu tư nước ngoài một cách có trọng tâm, trọng điểm, chủ động tiếp cận các nhà đầu tư có tiềm năng, có ý định đầu tư nghiêm túc vào Việt Nam. Để làm tốt công tác này, cần tăng cường hơn nữa và phối hợp chặt chẽ các hoạt động xúc tiến đầu tư với các hoạt động ngoại giao, xúc tiến thương mại và du lịch, giữa các cơ quan có liên quan của Chính phủ về xúc tiến đầu tư với các cơ quan hợp tác quốc tế, như Tổ chức xúc tiến thương mại Nhật Bản (JETRO), Cơ quan hợp tác xúc tiến đầu tư và thương mại Hàn Quốc (KOTRA), Trung tâm ASEAN - Hàn Quốc (AKC),...Năm 2013, trong bối cảnh nền kinh tế thế giới và Việt Nam sẽ vẫn phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức, nguồn vốn đầu tư nước ngoài chưa thể phục hồi mạnh, dự kiến vốn đầu tư đăng ký đạt khoảng 13 tỷ - 14 tỷ USD, vốn thực hiện đạt khoảng 10,5 tỷ - 11 tỷ USD, tương đương năm 2012.
Sáu là, định hướng, tạo điều kiện mở ra hình thức và lĩnh vực đầu tư mới. Thay vì hình thức truyền thống, nên khuyến khích, tạo điều kiện mở ra các hình thức khác, như thu hút vốn FDI theo hình thức đầu tư công - tư (PPP) hay các hình thức BOT, BT, BTO, BCC, góp vốn mua cổ phần và công ty mẹ - con... góp phần làm giảm tỷ lệ các dự án đầu tư theo hình thức liên doanh.
Bảy là, tăng cường việc bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ. Đây là yếu tố rất quan trọng đối với các doanh nghiệp muốn đầu tư vào các ngành có hàm lượng khoa học cao và phát triển năng động. Kinh nghiệm cho thấy, một số quốc gia do công tác quản lý lỏng lẻo, không có sự kiểm tra, giám sát nên nhiều công nghệ nước ngoài bị sử dụng không hợp pháp làm thiệt hại cho các nhà đầu tư, hệ quả là các nhà đầu tư nghiêm túc trong những ngành công nghệ cao không mặn mà đầu tư vào./.
Phòng, chống khuynh hướng “phi chính trị hóa lực lượng vũ trang” ở Việt Nam hiện nay  (04/06/2013)
Xây dựng Đảng ta trong sạch, vững mạnh ngang tầm với yêu cầu, nhiệm vụ mới theo tư tưởng về Đảng Cộng sản trong “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản”  (04/06/2013)
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng tiếp Đại sứ Hàn Quốc  (03/06/2013)
Triển lãm "Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam - những bằng chứng lịch sử"  (03/06/2013)
Hợp tác quốc phòng Việt Nam - Nhật Bản phát triển tốt đẹp  (03/06/2013)
- Chủ nghĩa thực dân số trong thời đại số và những vấn đề đặt ra
- Phương hướng, giải pháp nâng cao chất lượng công tác dân vận của Quân đội nhân dân Việt Nam, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn mới
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển đội ngũ nhà giáo và sự vận dụng của Đảng trong giai đoạn hiện nay
- Ngành y tế với công tác chăm sóc, bảo vệ và phát huy vai trò người cao tuổi trong giai đoạn hiện nay
- Quan điểm, chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về công tác tuyên truyền, vận động quần chúng nhân dân - Một số vấn đề đặt ra đối với việc vận dụng, phát triển trong kỷ nguyên mới của đất nước
-
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Cuộc chiến đấu bảo vệ Thành cổ Quảng Trị năm 1972 - khát vọng độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam -
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Chiến thắng Điện Biên Phủ - Bài học lịch sử và ý nghĩa đối với sự nghiệp đổi mới hiện nay -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - Bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Đổi mới tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị “tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả” theo tinh thần định hướng của Đồng chí GS, TS, Tổng Bí thư Tô Lâm