TCCSĐT - Báo cáo giải trình và trả lời chất vấn tại kỳ họp thứ 8, Quốc hội khóa XII, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã làm làm rõ thêm một số vấn đề lớn liên quan đến công tác quản lý điều hành chung của Chính phủ và cá nhân Thủ tướng.

Đến chiều 23-11, đã có 89 đại biểu Quốc hội gửi 214 chất vấn đến Thủ tướng và các thành viên Chính phủ; trong đó, có 26 chất vấn Thủ tướng Chính phủ với 44 câu hỏi, tập trung vào 6 nhóm vấn đề. Các nội dung đều đã được Thủ tướng báo cáo, giải trình.

Về kiềm chế lạm phát và kiểm soát giá. Trước diễn biến phức tạp của giá tiêu dùng (đến hết tháng 11, giá tiêu dùng tăng 9,58% so với tháng 12 năm 2009, trong đó, giá lương thực, thực phẩm, vật liệu xây dựng tăng gần 13%, nhóm hàng hoá và dịch vụ giáo dục tăng 19%, giá vàng tăng 23,31%), Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị số 1875 ngày 11 - 10 – 2010, về việc tăng cường thực hiện các biện pháp bình ổn giá cả thị trường trong thời gian tới và giao các bộ, cơ quan và Chính quyền địa phương tổ chức thực hiện, trong đó nhấn đến một số biện pháp trọng tâm:

- Tập trung tháo gỡ các khó khăn vướng mắc, tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển sản xuất kinh doanh, ưu tiên nguồn lực cho các địa phương vùng bị lũ lụt sớm khôi phục sản xuất, bảo đảm lưu thông và cung cấp hàng hoá kịp thời cho nhân dân, không để xảy ra tình trạng khan hàng, sốt giá.

- Giữ ổn định giá một số hàng hóa, dịch vụ đầu vào cơ bản của nền kinh tế như điện, than…; sử dụng linh hoạt công cụ thuế, phí, quỹ bình ổn giá để ổn định giá ở mức phù hợp.

- Điều hành các công cụ tài chính, tiền tệ linh hoạt theo cơ chế thị trường. Kiểm soát chặt chẽ hiệu quả chi ngân sách nhà nước...

- Bộ Công Thương và các địa phương triển khai các chương trình bình ổn thị trường, giá cả; bảo đảm cung cấp đủ các mặt hàng thiết yếu và các hàng hoá phục vụ Tết.

- Tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra việc chấp hành pháp luật về giá, xử lý nghiêm các hành vi vi phạm.

Về lâu dài, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nâng cao chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh, giảm mạnh nhập siêu; tạo cơ sở vững chắc để kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô.

Về khai thác, chế biến bô-xít và triển khai hai dự án Tân Rai, Nhân Cơ, Thủ tướng thông tin tài nguyên quặng bô-xít để sản xuất a-lu-min, nhôm của nước ta là rất lớn, trữ lượng dự báo khoảng 11 tỷ tấn, tập trung chủ yếu ở Tây Nguyên. Việt Nam là nước có trữ lượng bô-xít hàng đầu thế giới. Việc thăm dò, khai thác, chế biến bô-xít là chủ trương nhất quán từ Đại hội IX và Đại hội X của Đảng. Để triển khai chủ trương này, trong 2 nhiệm kỳ qua, Chính phủ đã 3 lần báo cáo và đã được Bộ Chính trị thảo luận, có kết luận chỉ đạo, 1 lần báo cáo Ban Chấp hành Trung ương Đảng và 1 lần báo cáo Quốc hội. Các chủ trương, chỉ đạo đã nêu rõ: việc khai thác, chế biến bô - xít gắn với xây dựng ngành công nghiệp sản xuất alumin, nhôm nhằm phục vụ phát triển kinh tế của đất nước, góp phần phát triển kinh tế - xã hội của Tây Nguyên; Nhà nước cần tập trung đầu tư hoặc hỗ trợ đầu tư; việc triển khai phải bảo đảm lợi ích trước mắt, lâu dài và bền vững; có bước đi thích hợp, từ nhỏ đến lớn, vừa làm vừa rút kinh nghiệm, bảo đảm hiệu quả kinh tế - xã hội, bảo vệ môi trường sinh thái, an ninh, quốc phòng; sử dụng thiết bị và công nghệ hiện đại; trên cơ sở kết quả của 2 dự án Tân Rai và Nhân Cơ tổ chức rút kinh nghiệm để bổ sung hoàn chỉnh quy hoạch và kế hoạch cho giai đoạn tiếp theo.

Trên cơ sở đó, Chính phủ đã chỉ đạo các bộ, ngành chức năng, Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam và các địa phương liên quan thực hiện đúng chủ trương của Đảng và Nhà nước; trong đó, đã chỉ đạo xây dựng, thẩm định, phê duyệt Quy hoạch phân vùng thăm dò, khai thác chế biến, sử dụng quặng bô-xít giai đoạn 2007 - 2015, có xét đến 2025 theo đúng quy định của pháp luật, với bước đi cụ thể, gắn với quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội toàn vùng Tây Nguyên và quy hoạch mạng lưới kết cấu hạ tầng (giao thông vận tải, cảng biển, điện, nước...).

Thực hiện ý kiến chỉ đạo của Bộ Chính trị, ý kiến góp ý của một số đại biểu Quốc hội, cán bộ lão thành cách mạng, nhà khoa học…, Thủ tướng đã giao Bộ Công thương chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành thực hiện việc kiểm tra, tính toán, đánh giá lại hiệu quả kinh tế và tác động môi trường đối với các dự án, đặc biệt chú ý thẩm định thiết kế kỹ thuật hồ bùn đỏ, bảo đảm an toàn lâu dài đối với môi trường. Thủ tướng đã yêu cầu, căn cứ vào kết quả đánh giá lại, nếu Dự án thực sự hiệu quả và bảo đảm chặt chẽ yêu cầu về môi trường mới tiếp tục triển khai. Bộ Công thương đã thành lập Hội đồng kiểm tra liên ngành gồm 19 thành viên từ các bộ, ngành và các nhà khoa học, các chuyên gia hàng đầu. Như vậy, việc thẩm định các dự án đã được các Hội đồng Thẩm định do Bộ Công thương, Bộ Tài nguyên và Môi trường thành lập, tiến hành thẩm định nghiêm túc, thận trọng và đã khẳng định các dự án có hiệu quả kinh tế - xã hội, bảo đảm an toàn về môi trường và an ninh, quốc phòng.

Sau khi có sự cố vỡ hồ bùn đỏ ở Hung-ga-ri và sự quan tâm góp ý của một số đại biểu Quốc hội, cán bộ lão thành cách mạng, nhà khoa học,… Thủ tướng đã yêu cầu các bộ, ngành liên quan, đặc biệt là Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam rà soát lại các hạng mục công trình của Dự án và các giải pháp xây dựng, vận hành hồ bùn đỏ. Yêu cầu Tập đoàn thuê tư vấn nước ngoài có kinh nghiệm để thẩm định lại, trên cơ sở đó hoàn thiện thiết kế hồ bùn đỏ của các Dự án; đồng thời, giao Bộ Công thương tổ chức Đoàn khảo sát sự cố hồ bùn đỏ ở Hung-ga-ri. Đoàn khảo sát ở Hung-ga-ri đã có báo cáo đánh giá giải pháp công nghệ và quản lý hồ bùn đỏ Tân Rai là hiện đại, có độ an toàn cao. Tuy vậy, sau khi có kết luận thẩm định lại của tư vấn nước ngoài, Thủ tướng Chính phủ sẽ xem xét quyết định và chỉ tiếp tục thực hiện Dự án khi bảo đảm an toàn về môi trường.

Về Tập đoàn Công nghiệp tàu thủy (Vinashin), Thủ tướng điểm lại giai đoạn 1996 - 2008, tốc độ tăng trưởng bình quân của Vinashin hàng năm đạt 35 - 40%, kinh doanh đều có lãi (theo kết quả kiểm toán độc lập, lợi nhuận trước thuế năm 2005 là 126,5 tỉ đồng, năm 2006 là 503,3 tỉ đồng, năm 2007 là 858,8 tỉ đồng, năm 2008 là 645,1 tỉ đồng); đến hết năm 2009 đã đóng góp vào ngân sách nhà nước trên 3.300 tỉ đồng. Tập đoàn đã có bước phát triển đáng kể về năng lực đóng và sửa chữa tàu biển; đến năm 2008, có đội ngũ lao động gần 70 nghìn người, trong đó, trình độ đại học và trên đại học hơn 12 nghìn, công nhân kỹ thuật trên 55 nghìn. Tính đến đầu năm 2009, Tập đoàn đã có số đơn đặt hàng đóng tàu với tổng giá trị gần 12 tỉ USD, đã hoàn thành đóng và bàn giao được 279 tàu trị giá trên 1,8 tỉ USD, bao gồm: 59 tàu trọng tải 6.500 và 15.000 tấn, 9 tàu 22.500 và 34.000 tấn, 9 tàu 53.000 tấn, 6 tàu công-te-nơ, 1 tàu chở ô-tô 4.900 xe, 1 kho nổi chứa xuất dầu thô 150.000 tấn với trang thiết bị hiện đại và nhiều loại tàu khác. Trong số tàu trên, đã xuất khẩu 155 tàu, trị giá trên 1,1 tỉ USD.

Từ cuối năm 2008, Vinashin gặp nhiều khó khăn, sản xuất kinh doanh đình trệ, không thu xếp được vốn để thực hiện các hợp đồng đã ký. Tập đoàn lâm vào tình trạng thua lỗ (năm 2009 lỗ 1.600 tỉ đồng). Theo đánh giá của Chính phủ, thực trạng này có nguyên nhân khách quan do ảnh hưởng nặng nề của cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu, nhiều chủ tàu đã hủy hợp đồng (từ đơn hàng có giá trị gần 12 tỉ USD xuống chỉ còn trên 2 tỉ); song nguyên nhân chủ quan vẫn là chủ yếu, trước hết là do việc cố ý làm trái, báo cáo không trung thực và yếu kém của lãnh đạo Tập đoàn trong quản trị doanh nghiệp, quản lý tài chính và đầu tư, phát triển thêm quá nhiều doanh nghiệp và ngành nghề kinh doanh… Trong khi đó, một số cơ quan chức năng thuộc Chính phủ chưa thực hiện tốt nhiệm vụ quản lý nhà nước và quản lý của chủ sở hữu đối với Tập đoàn.

Khi được các cơ quan chức năng báo cáo tình hình quản lý yếu kém và sai trái của lãnh đạo Tập đoàn Vinashin, Thủ tướng đã yêu cầu các bộ chức năng, bộ quản lý ngành liên tục theo sát để tháo gỡ khó khăn, duy trì sản xuất kinh doanh và yêu cầu cắt giảm từ 106 dự án với tổng mức đầu tư gần 64 nghìn tỷ đồng xuống còn 28 dự án với tổng mức đầu tư gần 25 nghìn tỉ đồng. Riêng giai đoạn 2010 - 2011, chỉ thực hiện 13 dự án đang đầu tư dở dang với tổng mức đầu tư gần 2 nghìn tỉ đồng. Tháng 7 - 2009, Thủ tướng đã quyết định thành lập Tổ công tác liên ngành để nghiên cứu đề xuất phương án tái cơ cấu Tập đoàn; đồng thời, đã yêu cầu Tập đoàn nghiêm túc kiểm điểm trách nhiệm của tập thể và cá nhân trong Hội đồng quản trị, Ban Tổng giám đốc, lãnh đạo các đơn vị thành viên và yêu cầu các cơ quan chức năng tiến hành thanh tra, điều tra xử lý nghiêm các sai phạm theo pháp luật.

Theo báo cáo của Tổ công tác và Hội đồng quản trị Tập đoàn Vinashin, đến ngày 30-6-2010, tổng số nợ của Tập đoàn là hơn 86 nghìn tỉ đồng, trong đó nợ đến hạn phải trả trên 14 nghìn tỉ đồng, tỷ lệ nợ/vốn chủ sở hữu bằng gần 11 lần. Tập đoàn rơi vào tình trạng mất cân đối tài chính nghiêm trọng, sản xuất đình đốn, nợ lương, nợ bảo hiểm đối với người lao động, công nhân chuyển việc, bỏ việc gần 17.000 người, mất việc gần 5.000 người.

Số nợ vay 86 nghìn tỉ đồng và số vốn chủ sở hữu hơn 8.000 tỉ đồng đang nằm trong tổng giá trị tài sản của Tập đoàn trên sổ sách là hơn 104 nghìn tỷ đồng. Giá trị thực tế của mỗi tài sản cũng có thể cao hơn, bằng hoặc thấp hơn trên sổ sách, hiện đang được rà soát đánh giá cụ thể. Các tài sản này đang được quản lý ở các đơn vị và doanh nghiệp thuộc Tập đoàn, trong đó có 110 cơ sở sản xuất, với 28 nhà máy đóng tàu đang hoạt động có cơ sở vật chất kỹ thuật khá tốt, 14 nhà máy đóng tàu đang thực hiện đầu tư; các cơ sở sản xuất công nghiệp phụ trợ; các dự án khu công nghiệp, cảng biển và đội tàu vận tải biển 700 nghìn tấn trọng tải… Như vậy, con số 86 nghìn tỷ nợ vay của Tập đoàn không phải là số tiền mà Vinashin đã thua lỗ, thất thoát.

Tuy khó khăn còn rất lớn nhưng việc triển khai các giải pháp tái cơ cấu Tập đoàn Vinashin đã có kết quả bước đầu tích cực. Đã chấn chỉnh, kiện toàn một bước về tư tưởng, tổ chức, đội ngũ cán bộ và quy chế quản lý nội bộ của Tập đoàn. Đến nay, về cơ bản, sản xuất kinh doanh được duy trì và có bước phục hồi. Từ đầu năm đến ngày 18 tháng 11 năm 2010 Tập đoàn đã giao được 36 tàu với giá trị hợp đồng trên 280 triệu USD, trong đó có 21 tàu xuất khẩu. Từ nay đến cuối năm sẽ giao thêm 21 tàu với tổng giá trị gần 293 triệu USD, trong đó có 7 tàu xuất khẩu. Tập đoàn đang phấn đấu giao thêm 9 tàu nữa, nâng tổng số tàu dự kiến giao trong năm lên 66 tàu với tổng giá trị gần 600 triệu USD. Năm 2010 doanh thu của Tập đoàn dự kiến sẽ đạt 14 - 15 nghìn tỉ đồng và lỗ kinh doanh sẽ ít hơn năm 2009.

30 doanh nghiệp và 5 dự án được chuyển giao sang Tập đoàn Dầu khí và Tổng công ty Hàng hải đều phù hợp với ngành nghề chính và cũng là thế mạnh của hai doanh nghiệp này. Đến nay, hầu hết đã phục hồi sản xuất, hoạt động trở lại, bảo đảm việc làm và thu nhập cho người lao động, có triển vọng phát triển, trả được nợ và có lãi.

Hiện nay, Thanh tra Chính phủ đang hoàn chỉnh kết luận thanh tra toàn diện Tập đoàn Vinashin. Chính phủ đã nghiêm túc kiểm điểm và đề ra kế hoạch cụ thể với hai yêu cầu là: chấn chỉnh và xử lý khó khăn, tạo điều kiện để tập đoàn Vinashin sớm ổn định, phục hồi sản xuất kinh doanh, từng bước giảm lỗ, có lãi, trả được nợ, tích luỹ và phát triển; tập trung hoàn thiện thể chế cơ chế, nâng cao trách nhiệm, hiệu lực hiệu quả quản lý nhà nước và quản lý của chủ sở hữu đối với doanh nghiệp nhà nước, không để xảy ra tình trạng như Vinashin.

Về bảo đảm cung ứng điện cho sản xuất và đời sống, một lần nữa Thủ tướng khẳng định nguyên nhân là do phần lớn các dự án điện đều thiếu vốn và cho biết: trong nhiều năm qua Chính phủ chỉ tập trung tdành vốn ngân sách phục vụ cấp điện cho các thôn, buôn, vùng đồng bào dân tộc. Với khoảng 40 dự án đầu tư xây dựng nguồn điện và hàng chục dự án đầu tư xây dựng lưới truyền tải để đáp ứng nhu cầu hàng năm phải bổ sung thêm khoảng 3.000 MW, tương đương nhu cầu vốn khoảng 6 tỷ USD/năm.

Chính phủ đã chỉ đạo các Bộ, ngành liên quan thực hiện các biện pháp để khắc phục tình trạng thiếu điện năm 2011 và các năm tới như sau:

- Khai thác tối đa các nguồn phát điện hiện có, kể cả các nhà máy điện sử dụng dầu đốt có giá thành sản xuất cao; nguồn điện diesel dự phòng của các doanh nghiệp. Rút ngắn thời gian sửa chữa, bố trí hợp lý lịch sửa chữa các tổ máy hiện có để tăng sản lượng điện. Tiếp tục nhập khẩu tối đa lượng điện từ nước ngoài.

- Đưa vào vận hành ổn định các dự án nguồn điện, nhất là các dự án nhiệt điện than mới ở miền Bắc; Tổ máy 1 của thủy điện Sơn La với công suất 400 MW sẽ đưa vào vận hành giữa tháng 12 năm 2010, sớm 2 năm so với thời hạn đề ra trong Nghị quyết của Quốc hội. Từ nay đến hết năm 2011, đưa vào vận hành khoảng 5.000 MW, tăng trên 20% công suất nguồn so với hiện nay.

- Ưu tiên tích nước cho các hồ chứa thuỷ điện để đảm bảo đến cuối năm 2010 đạt mức nước dâng cao nhất có thể được nhằm huy động tối đa công suất cho giai đoạn mùa khô năm 2011.

- Tăng cường công tác tuyên truyền sử dụng điện tiết kiệm và hiệu quả trong sản xuất và tiêu dùng. Trường hợp xảy ra thiếu điện phải thực hiện các giải pháp tiết giảm hợp lý.

Đồng thời, Chính phủ sẽ chỉ đạo thực hiện các giải pháp sau:

- Ban hành Quy hoạch phát triển điện lực quốc gia giai đoạn 2015 - 2020 có tính đến năm 2030 (Quy hoạch điện VII) vào cuối năm 2011.

- Thực hiện cơ cấu lại ngành điện, sớm đưa thị trường phát điện cạnh tranh vào hoạt động.

- Thực hiện lộ trình từng bước giá bán điện theo cơ chế thị trường nhằm bảo đảm cho các nhà đầu tư thu hồi vốn và có tích lũy hợp lý để tái sản xuất mở rộng, đồng thời với việc hỗ trợ phù hợp cho các hộ nghèo.

- Nghiên cứu trình Quốc hội sửa đổi Luật Điện lực cho phù hợp với cơ chế thị trường.

Về khắc phục hậu quả thiên tai tại miền Trung, Thủ tướng Chính phủ đã chỉ đạo các Bộ, ngành và địa phương:

- Ưu tiên vốn thực hiện chương trình củng cố, nâng cấp bảo đảm an toàn hồ chứa nước, nhất là trên địa bàn các tỉnh miền Trung. Nâng cao chất lượng dự báo và khả năng phòng chống thiên tai.

- Bổ sung các trang thiết bị tìm kiếm cứu nạn phù hợp với đặc thù địa phương để tăng cường khả năng ứng cứu tại chỗ. Có cơ chế hỗ trợ địa phương vùng thường xuyên bị bão lụt xây dựng các công trình công cộng, từng bước tiến tới hỗ trợ mỗi gia đình xây được một gian nhà cao tầng kiên cố kết hợp làm nơi tránh trú khi lũ, bão xảy ra.

- Tiếp tục rà soát, điều chỉnh quy hoạch hệ thống kết cấu hạ tầng và các công trình thoát lũ.

- Các bộ, ngành, địa phương chủ động thực hiện Chiến lược quốc gia và Kế hoạch hành động phòng, chống và giảm nhẹ thiên tai đã được phê duyệt.

Về đầu tư và triển khai nghị quyết của Trung ương về nông nghiệp, nông dân và nông thôn, Thủ tướng báo cáo, ngày 28-10-2008 Chính phủ đã ra Nghị quyết ban hành Chương trình hành động, giao nhiệm vụ cho các Bộ, ngành, địa phương xây dựng và triển khai nhiều chương trình, đề án. Đến nay, 8/9 đề án quy hoạch, 3/3 chương trình mục tiêu quốc gia và 21/27 đề án chuyên ngành đã được thông qua, từ nay đến cuối năm sẽ hoàn thành thêm 3 đề án.

Về đầu tư cho khu vực nông nghiệp, nông thôn, Nghị quyết Trung ương 7 xác định: "tăng đầu tư phát triển cho khu vực nông nghiệp, nông thôn; tăng mạnh đầu tư ngân sách nhà nước ngay từ năm 2009 và đảm bảo 5 năm sau cao gấp 2 lần 5 năm trước". Thực hiện Nghị quyết Trung ương 7, đầu tư cho nông nghiệp, nông thôn đã được quan tâm nhiều hơn: năm 2009, tổng vốn đầu tư bố trí cho lĩnh vực này gần 80 nghìn tỉ đồng, bằng 46,8% tổng vốn đầu tư phát triển từ nguồn ngân sách nhà nước và trái phiếu Chính phủ, tăng 43,2% so với năm 2008; trong đó, đầu tư cho phát triển nông nghiệp tăng 64,5%, cho phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội, xoá đói giảm nghèo ở nông thôn tăng 33%. Năm 2010, tổng vốn đầu tư bố trí cho lĩnh vực này hơn 87 nghìn tỉ đồng, bằng 48,1% tổng vốn đầu tư phát triển từ nguồn ngân sách nhà nước và trái phiếu Chính phủ, tăng 10,5% so với năm 2009; trong đó, đầu tư cho phát triển nông nghiệp tăng 9,1%, cho phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội, xoá đói giảm nghèo ở nông thôn tăng 11,3%. Trong dự toán năm 2011, tổng vốn đầu tư dự kiến bố trí cho lĩnh vực này là 98,5 nghìn tỉ đồng, bằng 50% tổng vốn đầu tư phát triển từ nguồn ngân sách nhà nước và trái phiếu Chính phủ, tăng 12,9% so với kế hoạch năm 2010; trong đó, đầu tư cho phát triển nông nghiệp tăng 7,3%, cho phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội, xoá đói giảm nghèo ở nông thôn tăng 11,6%.

Ngoài nguồn vốn trên, hàng năm Nhà nước còn dành một phần vốn dự phòng ngân sách trung ương phục vụ cho phát triển nông nghiệp, nông thôn (mỗi năm từ 7 đến 8 nghìn tỉ đồng, chủ yếu hỗ trợ các địa phương khắc phục hậu quả thiên tai, lụt bão, dịch bệnh…) và thực hiện miễn giảm thuế, phí, bù lãi suất tín dụng ưu đãi...

Như vậy, sau 3 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 7, tổng vốn ngân sách và trái phiếu Chính phủ đầu tư cho khu vực nông nghiệp, nông thôn đã tăng, gấp 1,46 lần so với giai đoạn 2004 - 2008, trước khi có Nghị quyết Trung ương 7. Nếu năm 2012 và 2013, Quốc hội phê duyệt mức đầu tư bằng hoặc cao hơn năm 2011 thì sau 5 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 7 (2009 - 2013) sẽ đạt và vượt mục tiêu đề ra là đảm bảo vốn đầu tư cho khu vực nông nghiệp, nông thôn 5 năm sau cao gấp hai lần 5 năm trước./.