Đồng lòng, chung sức hiện thực hóa các chiến lược đột phá để Thành phố Hồ Chí Minh vững bước phát triển
TCCS - Kế thừa, phát huy những kết quả đạt được và bài học kinh nghiệm của nhiệm kỳ 2020 - 2025 làm động lực, Đảng bộ, chính quyền, nhân dân và cộng đồng doanh nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh đang chung sức, đồng lòng vận dụng sáng tạo quan điểm, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước để quyết tâm thực hiện các chiến lược đột phá, vững bước tiến vào giai đoạn phát triển mới.
Những dấu ấn nổi bật
Trong 5 năm (2020 - 2025), dù phải đối diện với nhiều khó khăn, thách thức, nhưng Đảng bộ, chính quyền, nhân dân và cộng đồng doanh nghiệp của 3 địa phương (Thành phố Hồ Chí Minh, tỉnh Bình Dương và Bà Rịa - Vũng Tàu) luôn phát huy tinh thần đoàn kết, nỗ lực, quyết tâm cao để vững vàng vượt qua và đạt được nhiều kết quả quan trọng. Nhìn chung, phần lớn các chỉ tiêu kinh tế - xã hội nhiệm kỳ 2020 - 2025 đhoàn thành, tổng giá trị GRDP năm 2025 ước đạt 3,03 triệu tỷ đồng, tăng hơn 1,4 lần so với năm 2020, chiếm 23,1% GDP cả nước; GRDP bình quân đầu người năm 2025 ước đạt 8.686 USD, cao hơn 1,7 mức bình quân chung cả nước; thu ngân sách nhà nước đạt 737.000 tỷ đồng, chiếm 33,4% tổng thu ngân sách quốc gia. So với cùng kỳ, riêng 10 tháng đầu năm 2025, tổng thu ngân sách nhà nước của Thành phố Hồ Chí Minh là 652.509 tỷ đồng, đạt 97,2% dự toán Trung ương giao, bằng 115,5% cùng kỳ; thu hút khoảng 7,23 tỷ USD vốn đầu tư nước ngoài, tăng 28,67%; kim ngạch xuất khẩu của doanh nghiệp qua cảng, cửa khẩu cả nước lũy kế 10 tháng ước đạt 76,23 tỷ USD, tăng 4,87%.
Cùng với kết quả đạt được từ những đột phá chiến lược về thể chế, quản trị số hàng đầu cả nước, nhất là về chỉ số chuyển đổi số (DTI), cải cách hành chính (PAR Index), thực thi có hiệu quả các Hiệp định thương mại tự do (FTA), chỉ số xanh (PGI), phát triển khoa học - công nghệ và nguồn nhân lực chất lượng cao, Thành phố Hồ Chí Minh còn đẩy mạnh xây dựng hệ sinh thái du lịch, dịch vụ logistics phát triển vượt trội. Đồng thời, tạo điều kiện cho các vùng đô thị đủ tiềm lực để tiên phong, dẫn dắt với tốc độ tăng trưởng, chất lượng quản trị trên cơ sở đổi mới mô hình phát triển bền vững… Đó là nền tảng, động lực cho Thành phố Hồ Chí Minh tiếp tục giữ vững vị thế trung tâm kinh tế lớn, đóng vai trò là cửa ngõ hội nhập quốc tế. Để thúc đẩy mạnh mẽ liên kết vùng, Thành phố Hồ Chí Minh chú trọng phát huy vai trò nòng cốt thực hiện các đột phá chiến lược về hạ tầng giao thông; tạo động lực, không gian phát triển mới cho vùng Đông Nam Bộ, đồng bằng sông Cửu Long và các địa phương trong cả nước.
Một số khó khăn, thách thức
Sau hợp nhất, với sự cộng hưởng của 3 địa phương năng động bậc nhất phía Nam đã mở rộng không gian phát triển mới. Tuy nhiên, tại khu vực trung tâm Thành phố Hồ Chí Minh vẫn phải đối diện với tình trạng quá tải hạ tầng, áp lực dân số lớn, ô nhiễm môi trường, ngập úng, ùn tắc giao thông; việc huy động nguồn lực toàn xã hội để đầu tư phát triển chưa hiệu quả; công nghiệp chưa tạo đột phá về năng suất, chất lượng, hiệu quả; sức cạnh tranh, liên kết chuỗi sản xuất còn hạn chế. Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI), cải cách hành chính (Par-Index), hài lòng của người dân (SIPAS) chưa đạt như kỳ vọng. Khu vực Bình Dương tuy là điểm sáng về công nghiệp hóa và thu hút FDI, nhưng mô hình tăng trưởng vẫn dựa nhiều vào sản xuất gia công, thâm dụng lao động và đất đai, công nghiệp giá trị gia tăng thấp; thiếu các trung tâm đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, hạ tầng xã hội và năng lực đổi mới sáng tạo. Khu vực Bà Rịa - Vũng Tàu với lợi thế cảng biển nước sâu và du lịch biển, nhưng vẫn còn khó khăn trong liên kết vùng, phát triển chuỗi giá trị, công nghiệp hỗ trợ còn thiếu; thế mạnh kinh tế biển chưa thể hiện sự phát triển bứt phá, du lịch chưa gắn với các mô hình đô thị thông minh, y tế, nghỉ dưỡng cao cấp và dịch vụ sáng tạo; cảng Cái Mép - Thị Vải có năng lực cạnh tranh quốc tế nhưng sự kết nối còn rời rạc, thiếu hệ sinh thái logistics hiện đại.
Mặc dù những đột phá chiến lược của Thành phố Hồ Chí Minh đạt được bước tiến quan trọng nhưng thiếu tính đồng bộ, chưa đáp ứng yêu cầu hạ tầng đi trước một bước, nhất là phát triển hạ tầng giao thông vận tải kết nối liên vùng, hạ tầng số, khoa học - công nghệ và logistics. Việc kết nối kinh tế vùng, liên vùng và quốc tế chưa tương xứng với vị trí, tiềm năng. Đầu tư công vẫn còn phân tán, kém hiệu quả. Chính sách phát triển khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo còn nhiều bất cập; nhiều doanh nghiệp chưa làm chủ được công nghệ cao, công nghệ lõi, công nghệ nguồn trong những ngành chủ lực; chưa thu hút được nhân tài quốc tế trong các lĩnh vực then chốt nên chưa thực sự trở thành động lực chính cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Công tác quy hoạch, quản lý và phát triển đô thị chưa theo kịp với tốc độ tăng dân số cơ học và biến đổi khí hậu; tính đồng bộ giữa đầu tư xây dựng nhà ở với đầu tư hạ tầng kỹ thuật chưa cao, trong khi nguồn lực để giải quyết những vấn đề cơ bản, cấp bách như ngập nước, ô nhiễm môi trường, ùn tắc giao thông, nhà ở xã hội, bệnh viện, trường học, hệ thống phúc lợi xã hội vẫn chưa thật sự bảo đảm.
Việc thực hiện đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo vẫn còn khó khăn, bất cập; công tác quy hoạch, phát triển mạng lưới giáo dục nghề nghiệp, đào tạo và phát triển nguồn nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao có lúc, có nơi chưa đáp ứng yêu cầu hội nhập, cạnh tranh quốc tế. Nguồn lực đầu tư cho văn hóa - xã hội chưa đồng bộ, nên việc khai thác tiềm năng, lợi thế về công nghiệp văn hóa, dịch vụ văn hóa, hệ thống thiết chế văn hóa - xã hội… còn hạn chế, chưa thực sự trở thành ngành kinh tế sáng tạo.
Quyết tâm thực hiện tốt các chiến lược đột phá
Với mục tiêu tháo gỡ những khó khăn, thách thức từ thực tiễn để cùng cả nước vững bước vào kỷ nguyên phát triển thịnh vượng, Đại hội Đại biểu Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh lần thứ I, nhiệm kỳ 2025 - 2030 đề ra ba chiến lược đột phá, đó là: Về chính sách, thể chế; phát triển hạ tầng và phát triển nguồn nhân lực. Để hiện thực hóa các chiến lược đột phá này, hiện nay, Đảng bộ, chính quyền, nhân dân và cộng đồng doanh nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh đang chung sức, đồng lòng quyết tâm thực hiện với các nhiệm vụ trọng tâm sau.
Về chính sách, thể chế: Tập trung tháo gỡ, xử lý dứt điểm các khó khăn, vướng mắc tồn đọng nhiều năm đối với các dự án, công trình, đất đai trên tinh thần công khai, minh bạch để nhanh chóng khơi thông nguồn lực cho phát triển. Chủ động đề xuất điều chỉnh, sửa đổi một số điều của Nghị quyết số 98/2023/QH15, “Về thí điểm một số cơ chế, chính sách đặc thù phát triển Thành phố Hồ Chí Minh” nhằm đẩy mạnh thực hiện cơ chế, chính sách đặc thù về thúc đẩy phát triển Thành phố. Thí điểm mô hình đô thị tự chủ trong thành phố với quyền tự chủ cao trong quy hoạch, điều hành đô thị thông minh và tỷ lệ phân bổ ngân sách phù hợp, bảo đảm đủ nguồn lực để triển khai các mục tiêu phát triển của thành phố trong giai đoạn sắp tới.
Về phát triển hạ tầng: Tập trung thúc đẩy liên kết vùng thông qua hệ thống đường đối ngoại kết nối Thành phố Hồ Chí Minh với tỉnh Đồng Nai, Tây Ninh, Đồng Tháp, Lâm Đồng gồm đường vành đai, cao tốc, quốc lộ, đường trục chính đô thị, đường ven biển, ven sông, các nút giao thông, cầu lớn (Các tuyến đường Vành đai 2, 3, 4; Đường cao tốc Thành phố Hồ Chí Minh - Long Thành - Dầu Giây, Thành phố Hồ Chí Minh - Thủ Dầu Một - Chơn Thành, Bến Lức - Long Thành, Biên Hòa - Vũng Tàu, Hồ Tràm - Cảng hàng không quốc tế Long Thành, Thành phố Hồ Chí Minh - Mộc Bài, Thành phố Hồ Chí Minh - Trung Lương; quốc lộ 1, 22, 13, 50, 50B, 51, 51C, 56B; cầu đường Nguyễn Khoái, cầu đường Bình Tiên, cầu Thủ Thiêm 4, cầu Cần Giờ, cầu Phú Mỹ 2, cầu Phước An, cầu Cát Lái,…); các tuyến đường ven biển, đường ven sông Sài Gòn; các tuyến đường kết nối cao tốc, kết nối cảng biển, Cảng hàng không quốc tế Tân Sơn Nhất; các đường trục chính đô thị Bắc - Nam, xây dựng đường trục Đông Tây (đường Võ Văn Kiệt) nối dài từ quốc lộ 1 đến ranh tỉnh Tây Ninh, xây dựng đường mở mới phía Tây Bắc (từ đường Vành đai 2 đến giáp ranh tỉnh Tây Ninh), trục động lực Bình Dương - Tây Ninh, đường và cầu kết nối số 1 (quốc lộ 56B). Phát triển hệ thống đường sắt đô thị gồm: 10 tuyến đường sắt đô thị theo Nghị quyết số 188/2025/QH15 của Quốc hội, tuyến đường sắt Thủ Thiêm - Long Thành, tuyến đường sắt đô thị kết nối trung tâm Thành phố Hồ Chí Minh - Cần Giờ. Đầu tư xây dựng các tuyến đường sắt chở hàng kết hợp hành khách (tuyến Bàu Bàng - Dĩ An - Cái Mép - Thị Vải, Bàu Bàng - Mộc Bài, Thành phố Hồ Chí Minh - Cần Thơ, nâng cấp tuyến đường sắt Bình Triệu - Hòa Hưng). Phát triển hệ thống cảng biển Cái Mép Hạ, Cái Mép Hạ hạ lưu; cảng trung chuyển quốc tế Cần Giờ gắn với hệ thống logistics; cảng biển hành khách quốc tế Vũng Tàu, cảng biển hành khách quốc tế trên sông Sài Gòn; cải tạo nâng cấp kết cấu hạ tầng đường thủy theo quy hoạch. Nâng cấp, mở rộng sân bay Côn Đảo, đáp ứng nhu cầu vận tải và phát triển du lịch. Nạo vét, cải tạo hệ thống kênh, sông, rạch; hệ thống kiểm soát triều; hệ thống cống thoát nước; đầu tư xây dựng hệ thống cống thu gom và nhà máy xử lý nước thải. Phát triển hệ thống giao thông thông minh, hệ thống giao thông xanh; ứng dụng AI, IoT, dữ liệu lớn trong quản lý, điều hành.
Về phát triển nguồn nhân lực: Tập trung đổi mới toàn diện và thực chất hệ thống giáo dục - đào tạo theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Triển khai phát triển và ứng dụng công nghệ số, trí tuệ nhân tạo trong giáo dục, đẩy mạnh phương thức giáo dục tích hợp (STEAM), phổ cập năng lực tiếng Anh. Bảo đảm số lượng phòng học trên dân số trong độ tuổi đi học (ít nhất 300 phòng học/10 ngàn dân, trong độ tuổi đi học từ 3 đến 18 tuổi), hướng tới 100% số trẻ em trong độ tuổi đến trường đều được đi học. Thực hiện cơ chế, chính sách đặc thù nhằm đào tạo, thu hút, đãi ngộ và giữ chân nhân tài trong các lĩnh vực then chốt. Xây dựng hệ sinh thái đào tạo - nghiên cứu - khởi nghiệp đạt chuẩn quốc tế. Phát triển giáo dục nghề nghiệp gắn với chuyển đổi số và thị trường lao động; hình thành một số cơ sở giáo dục nghề nghiệp, ngành, nghề đào tạo trình độ tương đương khu vực và thế giới. Nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục, mở rộng chương trình trao đổi giảng viên quốc tế và phát huy vai trò của chuyên gia, nhà khoa học trong tư vấn và hoạch định chính sách giáo dục - đào tạo. Đẩy mạnh ứng dụng mô hình quản trị hiện đại, xây dựng hệ thống KPI công vụ, gắn trách nhiệm cá nhân với kết quả đầu ra; thực hiện luân chuyển, bố trí cán bộ gắn với chiến lược phát triển từng lĩnh vực, từng địa bàn./.
Thành phố Hồ Chí Minh: Kỳ vọng phát triển bứt phá kinh tế biển khu vực Bà Rịa - Vũng Tàu trước hợp nhất  (02/11/2025)
Yêu cầu và định hướng đổi mới thể chế trong phát triển Thủ đô Hà Nội  (01/11/2025)
Phát huy dân chủ cơ sở, xây dựng chính quyền Thành phố Hồ Chí Minh gần dân, sát dân, vì nhân dân phục vụ  (29/10/2025)
- Chủ nghĩa thực dân số trong thời đại số và những vấn đề đặt ra
- Phương hướng, giải pháp nâng cao chất lượng công tác dân vận của Quân đội nhân dân Việt Nam, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn mới
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển đội ngũ nhà giáo và sự vận dụng của Đảng trong giai đoạn hiện nay
- Ngành y tế với công tác chăm sóc, bảo vệ và phát huy vai trò người cao tuổi trong giai đoạn hiện nay
- Quan điểm, chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về công tác tuyên truyền, vận động quần chúng nhân dân - Một số vấn đề đặt ra đối với việc vận dụng, phát triển trong kỷ nguyên mới của đất nước
-
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Cuộc chiến đấu bảo vệ Thành cổ Quảng Trị năm 1972 - khát vọng độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam -
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Chiến thắng Điện Biên Phủ - Bài học lịch sử và ý nghĩa đối với sự nghiệp đổi mới hiện nay -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - Bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Đổi mới tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị “tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả” theo tinh thần định hướng của Đồng chí GS, TS, Tổng Bí thư Tô Lâm