Chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, đẩy mạnh công tác bảo vệ tài nguyên, môi trường

Nguyễn Minh Quang Ủy viên Trung ương Đảng, Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường
20:12, ngày 15-07-2013
TCCS - Nghị quyết Đại hội XI của Đảng nhấn mạnh: Chủ động nghiên cứu, đánh giá, dự báo tác động của biến đổi khí hậu đối với nước ta; thực hiện có hiệu quả chương trình mục tiêu quốc gia về ứng phó với biến đổi khí hậu; tích cực tham gia, phối hợp cùng cộng đồng quốc tế hạn chế tác động của biến đổi khí hậu, bảo vệ hệ thống khí hậu trái đất... Bộ Tài nguyên và Môi trường được giao chủ trì, phối hợp với các cơ quan hữu quan chuẩn bị Đề án: Chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, đẩy mạnh công tác bảo vệ tài nguyên, môi trường trình Hội nghị lần thứ bảy Ban chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI). Dưới đây là những nội dung cơ bản của Đề án.

Thực trạng ứng phó với biến đổi khí hậu và công tác bảo vệ tài nguyên môi trường

Quán triệt và thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ XI của Đảng, thời gian qua, chúng ta đã đạt được những kết quả bước đầu rất đáng khích lệ trong công tác bảo vệ tài nguyên, môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu. Nhận thức về biến đổi khí hậu của các ngành, các cấp, tổ chức đoàn thể và người dân đã có bước chuyển biến tích cực hơn. Việt Nam đã sớm tham gia Công ước khung của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu và Nghị định thư Ky-ô-tô. Nhiều hoạt động tuyên truyền, phổ biến, giáo dục nâng cao nhận thức về biến đổi khí hậu được thực hiện. Qua đó, nhận thức của các ngành, các cấp về biến đổi khí hậu, về nguy cơ tác động của biến đổi khí hậu đã có chuyển biến tích cực. Thể chế, chính sách về ứng phó với biến đổi khí hậu bước đầu được thiết lập. Nhiều hoạt động thích ứng với biến đổi khí hậu, phòng tránh thiên tai, giảm nhẹ phát thải khí nhà kính được thực hiện. Kịch bản biến đổi khí hậu, nước biển dâng được xây dựng, cập nhật và công bố. Chương trình mục tiêu quốc gia về biến đổi khí hậu được tích cực triển khai thực hiện và đã đạt được kết quả bước đầu. Một số bộ, ngành và địa phương đã đánh giá được tác động của biến đổi khí hậu và xây dựng kế hoạch hành động ứng phó. Một số tỉnh, thành phố đã đạt được kết quả bước đầu trong việc tiết kiệm điện. Người dân và doanh nghiệp ở một số nơi đã bắt đầu chủ động đầu tư khai thác thủy điện nhỏ, năng lượng gió, năng lượng mặt trời, nhiên liệu sinh học phục vụ sản xuất và tiêu dùng. 

Các cấp, các ngành, tổ chức đoàn thể và người dân đã nhận thức được vai trò của tài nguyên, coi trọng nguồn lực tài nguyên trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước. Công tác điều tra cơ bản về tài nguyên được quan tâm, coi trọng với quan điểm phải đi trước một bước. Đã có những chuyển biến bước đầu trong nhận thức về sự cần thiết phải bảo vệ, khai thác, sử dụng hợp lý, hiệu quả và bền vững các nguồn tài nguyên của đất nước. Việc sử dụng lãng phí tài nguyên bị lên án ngày càng mạnh mẽ. Hệ thống chính sách, pháp luật, tổ chức bộ máy về quản lý, bảo vệ tài nguyên sớm được xây dựng, từng bước đổi mới và hoàn thiện; đầu tư cho điều tra cơ bản được chú ý hơn. Nhà nước quan tâm đầu tư từ ngân sách cho công tác bảo vệ tài nguyên, nhất là cho công tác điều tra, đánh giá tiềm năng, trữ lượng tài nguyên. Tài nguyên đã đóng góp quan trọng cho phát triển kinh tế - xã hội thời gian qua, đặc biệt trong giai đoạn đầu của thời kỳ đổi mới. Quỹ đất cho phát triển công nghiệp, đô thị, hạ tầng và các mục đích phi nông nghiệp khác được bảo đảm. Nguồn thu từ đất đai đã đóng góp quan trọng cho ngân sách ở một số địa phương. Đất canh tác nông nghiệp, đất rừng về cơ bản được bảo vệ, nhờ đó an ninh lương thực được giữ vững, Việt Nam trở thành nước xuất khẩu nhiều sản phẩm hàng hóa nông nghiệp hàng đầu trên thế giới. 

Bảo vệ môi trường được nhìn nhận là vấn đề sống còn, được coi là một trong ba trụ cột để phát triển bền vững đất nước. Nhận thức về vai trò, tầm quan trọng của công tác bảo vệ môi trường của các cấp, các ngành, tổ chức đoàn thể và người dân đã có những chuyển biến tích cực; bảo vệ môi trường được đưa vào chương trình giáo dục, đào tạo các cấp học, được tuyên truyền trên các phương tiện truyền thông. Báo cáo đánh giá, kiểm điểm, kế hoạch, chương trình hoạt động của nhiều cấp ủy đảng, chính quyền, đoàn thể đã đề cập đến công tác bảo vệ môi trường. Đã xuất hiện nhiều gương tốt, điển hình trong công tác bảo vệ môi trường. Hệ thống chính sách, pháp luật về bảo vệ môi trường từng bước được hoàn thiện; tổ chức bộ máy và nguồn lực cho bảo vệ môi trường được tăng cường. Mức độ gia tăng ô nhiễm môi trường từng bước được hạn chế, công tác bảo tồn đa dạng sinh học đạt được những kết quả nhất định. Công tác phòng ngừa và kiểm soát ô nhiễm môi trường được đẩy mạnh. Nhiều cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng đã được xử lý triệt để, nhất là trong các đô thị, khu dân cư. Quy hoạch các khu chôn lấp, xử lý chất thải rắn ở các vùng kinh tế trọng điểm và đồng bằng sông Cửu Long đã được phê duyệt và từng bước triển khai xây dựng. Điều kiện sống của người dân dần được cải thiện, tỷ lệ dân cư được cung cấp nước sạch, hợp vệ sinh tăng. Độ che phủ của rừng được nâng lên, đạt gần 40%. Quy hoạch hệ thống các khu bảo tồn thiên nhiên được xây dựng. Số lượng và diện tích các vườn quốc gia, khu bảo tồn đã tăng lên trong những năm gần đây. Nhiều khu bảo tồn thiên nhiên đã được công nhận là khu dự trữ sinh quyển quốc tế, di sản thiên nhiên của ASEAN, thế giới.

Tuy nhiên, công tác ứng phó với biến đổi khí hậu, bảo vệ tài nguyên, môi trường vẫn đang đứng trước không ít khó khăn, thách thức. Biến đổi khí hậu diễn biến nhanh hơn, phức tạp hơn so với dự báo, nhất là thiên tai, nước biển dâng; triều cường, xâm nhập mặn xảy ra ở nhiều nơi, đặc biệt là khu vực Thành phố Hồ Chí Minh, Cần Thơ, đồng bằng sông Cửu Long và các địa phương ven biển; thiên tai cực đoan, thất thường hơn. Tài nguyên chưa được khai thác, sử dụng hợp lý, hiệu quả và bền vững. Khai thác khoáng sản tràn lan, công nghệ chế biến lạc hậu, tình trạng khai thác trái phép, xuất khẩu thô chậm được ngăn chặn. Sử dụng nước chưa hợp lý, còn lãng phí, kém hiệu quả; an ninh tài nguyên nước trong tương lai chưa được bảo đảm. Tình trạng thiếu nước ngọt xảy ra ở nhiều nơi nhưng chậm được khắc phục. Ô nhiễm môi trường, suy giảm đa dạng sinh học vẫn tiếp tục gia tăng, có lúc, có nơi đã đến mức báo động, ảnh hưởng xấu đến cuộc sống, sức khỏe của nhân dân, chất lượng giống nòi, cản trở sự phát triển bền vững đất nước.

Những khó khăn, yếu kém do nhiều nguyên nhân, nhưng nguyên nhân chủ quan vẫn là chính. Các cấp, các ngành còn quá tập trung nguồn lực cho tăng trưởng kinh tế, quá coi trọng kết quả trước mắt mà chưa quan tâm đầy đủ đến lợi ích lâu dài, mục tiêu phát triển bền vững. Chính sách, pháp luật về ứng phó với biến đổi khí hậu và bảo vệ tài nguyên, môi trường còn thiếu tổng thể, thiếu hệ thống, chưa đầy đủ, chưa sát với thực tế nên tính khả thi thấp. Nhiều giải pháp chưa xác định rõ bước đi, cách làm, nguồn lực thực hiện. Quản lý nhà nước kém hiệu quả, có lúc, có nơi còn buông lỏng, bị lợi ích cục bộ, lợi ích trước mắt chi phối. Đầu tư dàn trải, thiếu trọng tâm, trọng điểm. Thiếu sự phối hợp chặt chẽ liên ngành, liên vùng, sự quản lý thống nhất, mang tính hệ thống. Các chế tài chưa đủ sức răn đe; thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm pháp luật chưa nghiêm minh. 

Một số văn bản quy phạm pháp luật đã được ban hành, như Luật Đê điều, Luật Sử dụng tiết kiệm và hiệu quả năng lượng, Pháp lệnh phòng, chống lụt, bão... Chiến lược quốc gia về biến đổi khí hậu, Chiến lược tăng trưởng xanh đã được phê duyệt. Đã thành lập Ủy ban quốc gia về biến đổi khí hậu, hình thành đơn vị đầu mối ở Trung ương thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước về biến đổi khí hậu. Khoa học và công nghệ đã được ứng dụng, hỗ trợ trong việc dự báo, cảnh báo, xây dựng các kịch bản về biến đổi khí hậu.

Về quan điểm chỉ đạo

Trong tiến trình xây dựng và phát triển đất nước, chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu và đẩy mạnh công tác bảo vệ tài nguyên, môi trường có ý nghĩa sống còn; là nhiệm vụ quan trọng của cả hệ thống chính trị; là cơ sở, tiền đề cho hoạch định đường lối, chính sách phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh; là những nhân tố quyết định sự phát triển bền vững của đất nước; là trách nhiệm và nghĩa vụ của mọi tổ chức, cá nhân và cộng đồng, trong đó Nhà nước giữ vai trò chủ đạo, dưới sự lãnh đạo của Đảng và sự tham gia, giám sát của toàn xã hội.

Biến đổi khí hậu là vấn đề toàn cầu, thách thức nghiêm trọng đối với toàn nhân loại trong thế kỷ XXI. Ứng phó với biến đổi khí hậu phải đặt trong mối quan hệ toàn cầu và coi ứng phó với biến đổi khí hậu không chỉ là thách thức mà còn là cơ hội thúc đẩy chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo hướng phát triển bền vững. Để chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu phải tiến hành đồng thời các hoạt động thích ứng và giảm nhẹ, trong đó thích ứng với biến đổi khí hậu, chủ động phòng, tránh thiên tai là trọng tâm.

Tài nguyên là tài sản quốc gia, là nguồn lực quan trọng trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước, song có hạn, phải được đánh giá đầy đủ, định giá, hạch toán trong nền kinh tế. Đẩy mạnh bảo vệ, bảo đảm an ninh tài nguyên phải dựa trên việc khai thác và sử dụng tiết kiệm, hợp lý, hiệu quả và bền vững, trên cơ sở tiềm năng, gắn với mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội; chú trọng phát triển, sử dụng năng lượng tái tạo, vật liệu mới, tái chế. 

Bảo vệ môi trường vừa là mục tiêu, vừa là một trong những nội dung cơ bản của phát triển bền vững, phải được lồng ghép trong chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, dự án phát triển kinh tế - xã hội của từng ngành và từng địa phương. Đầu tư cho bảo vệ môi trường là đầu tư cho phát triển bền vững. Đẩy mạnh bảo vệ môi trường phải theo phương châm lấy phòng ngừa là chính, đi đôi với kiểm soát, xử lý ô nhiễm, khắc phục suy thoái, cải thiện môi trường, bảo tồn thiên nhiên và đa dạng sinh học. Phải trên cơ sở tiếp cận phương thức quản lý tổng hợp, liên ngành, liên vùng, tính đến lợi ích tổng thể và giải quyết hài hòa các lợi ích, có bước đi phù hợp với phương châm dựa vào nội lực là chính, đồng thời phát huy hiệu quả nguồn lực hỗ trợ và kinh nghiệm quốc tế, đẩy mạnh ứng dụng khoa học và công nghệ tiên tiến.

Mục tiêu và giải pháp

Mục tiêu tổng quát đến năm 2020, Việt Nam chủ động trong thích ứng với biến đổi khí hậu, phòng tránh thiên tai, giảm nhẹ cường độ phát thải khí nhà kính; có bước chuyển biến cơ bản trong khai thác, sử dụng tài nguyên theo hướng hợp lý, hiệu quả và bền vững; kiềm chế mức độ gia tăng ô nhiễm môi trường, suy giảm đa dạng sinh học nhằm bảo đảm chất lượng môi trường sống, duy trì cân bằng sinh thái, hướng tới nền kinh tế xanh, thân thiện với môi trường. Đến năm 2050, Việt Nam trở thành quốc gia phát triển, thích ứng với biến đổi khí hậu; khai thác hợp lý, sử dụng hiệu quả và bền vững tài nguyên, chất lượng môi trường sống tương đương với mức hiện nay của các nước công nghiệp mới nổi trong khu vực.

Mục tiêu cụ thể đến năm 2020, về ứng phó với biến đổi khí hậu: Nâng cao năng lực cảnh báo, dự báo thiên tai, giám sát biến đổi khí hậu; xây dựng một xã hội chủ động trong phòng tránh thiên tai, phấn đấu hằng năm giảm dần thiệt hại về người, tài sản do thiên tai gây ra. Chủ động ứng phó, hạn chế, khắc phục triều cường, xâm nhập mặn do nước biển dâng và thiên tai, nhất là ở các khu vực có nguy cơ cao, như vùng đồng bằng sông Cửu Long, Thành phố Hồ Chí Minh, Cần Thơ, miền núi, vùng đồng bào các dân tộc và các địa phương ven biển. Giảm mức phát thải khí nhà kính trên đơn vị GDP khoảng 8% - 10% so với năm 2010. Về bảo vệ tài nguyên: Đánh giá được tiềm năng các nguồn tài nguyên quan trọng trên đất liền; đạt được bước tiến quan trọng trong điều tra cơ bản tài nguyên biển. Sử dụng tiết kiệm, hiệu quả, bền vững các nguồn tài nguyên quốc gia; bảo đảm cân đối quỹ đất cho phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ 3,8 triệu héc-ta đất chuyên trồng lúa; nâng cao hiệu quả sử dụng nước trên 1 đơn vị GDP. Chuyển đổi cơ cấu sử dụng năng lượng theo hướng tăng sử dụng năng lượng tái tạo, năng lượng mới, phấn đấu đến năm 2020 đạt 5% tổng năng lượng thương mại sơ cấp. Giảm tiêu hao năng lượng trên 1 đơn vị GDP. Về bảo vệ môi trường: Không để phát sinh mới và xử lý triệt để các cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng; tiêu hủy, xử lý trên 85% chất thải nguy hại, 100% chất thải y tế; tái sử dụng hoặc tái chế trên 65% rác thải sinh hoạt. 95% dân cư thành thị và 90% dân cư nông thôn được sử dụng nước sạch, hợp vệ sinh; 70% lượng nước thải ra môi trường lưu vực sông Cầu, sông Nhuệ - Đáy và sông Đồng Nai được xử lý đạt quy chuẩn; nâng cao chất lượng môi trường không khí ở các đô thị, khu vực đông dân cư. Chấm dứt khai thác rừng tự nhiên, nâng diện tích các khu bảo tồn thiên nhiên lên trên 3 triệu héc-ta; nâng độ che phủ của rừng lên trên 45%.

Để nhanh chóng khắc phục những khó khăn, yếu kém, vượt qua những trở ngại, thách thức, đạt được những mục tiêu cơ bản nêu trên, trong những năm tới, chúng ta cần tập trung nỗ lực thực hiện những giải pháp chủ yếu sau:

Một là, tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy đảng, chính quyền; đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức, hình thành ý thức chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, tự giác sử dụng tiết kiệm tài nguyên và bảo vệ môi trường. Phát huy vai trò, phân công, làm rõ trách nhiệm của các cấp ủy đảng, chính quyền trong ứng phó với biến đổi khí hậu và bảo vệ tài nguyên, môi trường. Đa dạng hóa các hình thức tuyên truyền; đưa nội dung giáo dục về ứng phó với biến đổi khí hậu, bảo vệ tài nguyên, tăng khối lượng về môi trường trong chương trình đào tạo, sách giáo khoa của hệ thống giáo dục quốc dân; xây dựng năng lực, kỹ năng, phổ biến kinh nghiệm phòng, tránh thiên tai, thích ứng với biến đổi khí hậu, bảo đảm mọi người dân và toàn xã hội luôn sẵn sàng ứng phó trước các tác động của biến đổi khí hậu. Kết hợp các phương tiện truyền thông tạo dư luận xã hội lên án, thống nhất nhận thức cần xử lý nghiêm khắc đối với các hành vi sử dụng lãng phí tài nguyên, và xâm hại môi trường. 

Hai là, tăng cường quản lý nhà nước về ứng phó với biến đổi khí hậu và bảo vệ tài nguyên, môi trường. Rà soát, sửa đổi, bổ sung, xây dựng mới luật và các văn bản dưới luật trên các lĩnh vực biến đổi khí hậu, tài nguyên, môi trường nhằm tạo môi trường pháp lý thuận lợi cho việc thực hiện các nhiệm vụ trọng tâm về chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu và đẩy mạnh công tác bảo vệ tài nguyên, môi trường. Trước mắt, tập trung sửa đổi, bổ sung Luật Đất đai, Luật Bảo vệ môi trường, Luật Bảo vệ và Phát triển rừng, Luật Thủy sản; xây dựng các luật về tài nguyên và môi trường biển, về khí tượng thủy văn, về phòng tránh, giảm nhẹ thiên tai... đồng thời, rà soát, sửa đổi, bổ sung luật và các văn bản dưới luật trên các lĩnh vực có liên quan, như đầu tư, thuế, hình sự, hành chính, dân sự, khiếu nại, tố cáo... theo hướng bổ sung, kết hợp, khắc phục các chồng chéo, xung đột. 

Ba là, xây dựng cơ chế, chính sách khuyến khích xã hội hóa hoạt động ứng phó với biến đổi khí hậu và bảo vệ tài nguyên, môi trường, phát huy hơn nữa vai trò của các tổ chức đoàn thể, xã hội và cộng đồng dân cư. Nghiên cứu phương án hoàn thiện hệ thống pháp luật, kiện toàn tổ chức bộ máy, sử dụng nguồn lực đầu tư về ứng phó với biến đổi khí hậu và bảo vệ tài nguyên, môi trường theo hướng tổng hợp và thống nhất. Phân định rõ chức năng quản lý nhà nước về ứng phó với biến đổi khí hậu và bảo vệ tài nguyên, môi trường; khắc phục tình trạng chồng chéo về thẩm quyền, chức năng, nhiệm vụ, phân công, phân cấp không phù hợp; xây dựng cơ chế quản lý tổng hợp, phối hợp liên ngành, liên vùng. Thống nhất đầu mối quản lý nhà nước đối với tất cả các nguồn tài nguyên quốc gia và bảo vệ các thành phần môi trường. Tăng cường các chế tài hành chính, hình sự, kinh tế và đẩy mạnh công tác giám sát, kiểm tra, thanh tra bảo đảm chính sách, pháp luật, quy chuẩn, tiêu chuẩn của Nhà nước trên lĩnh vực biến đổi khí hậu, tài nguyên và môi trường được thực hiện nghiêm minh và hiệu quả. 

Bốn là, đẩy mạnh nghiên cứu khoa học về ứng phó biến đổi khí hậu và bảo vệ tài nguyên, môi trường, sớm hình thành một số chuyên ngành khoa học mũi nhọn, như năng lượng tái tạo, tái chế chất thải, vật liệu mới, thiên văn,... Xây dựng và thực hiện chương trình khoa học và công nghệ trọng điểm cấp nhà nước trực tiếp phục vụ việc thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ trọng tâm về ứng phó với biến đổi khí hậu và bảo vệ tài nguyên, môi trường. Tăng cường ứng dụng công nghệ viễn thám, công nghệ mới, tiên tiến trên nền tảng công nghệ thông tin trong ứng phó với biến đổi khí hậu và bảo vệ tài nguyên, môi trường.

Năm là, tăng cường huy động và đa dạng hóa nguồn lực tài chính cho ứng phó với biến đổi khí hậu và bảo vệ tài nguyên, môi trường. Kết hợp tăng chi từ ngân sách với tăng cường, đa dạng hóa các nguồn vốn đầu tư, ưu tiên vốn vay ưu đãi, tích cực huy động nguồn tài trợ không hoàn lại của các tổ chức quốc tế, chính phủ các nước; đẩy mạnh hợp tác công, tư và huy động các nguồn lực trong xã hội bảo đảm nguồn lực tài chính để thực hiện các nhiệm vụ trọng tâm về ứng phó với biến đổi khí hậu và bảo vệ tài nguyên, môi trường. Vận dụng linh hoạt phù hợp với điều kiện nước ta các nguyên tắc phát triển bền vững, như người gây ô nhiễm phải trả chi phí xử lý, khắc phục, cải tạo và phục hồi môi trường; người hưởng lợi từ tài nguyên, môi trường phải trả tiền để hình thành cơ chế tạo nguồn thu từ tài nguyên, môi trường đầu tư trở lại cho công tác bảo vệ tài nguyên, môi trường. Tăng cường, áp dụng linh hoạt các cơ chế, chính sách ưu đãi, hỗ trợ như vay vốn ưu đãi, giảm thuế, trợ giá đối với hoạt động ứng phó với biến đổi khí hậu và bảo vệ tài nguyên, môi trường. 

Sáu là, chủ động hợp tác, hội nhập quốc tế và phát triển quan hệ đối tác chiến lược trong thực hiện Mục tiêu Thiên niên kỷ, ứng phó với biến đổi khí hậu và bảo vệ tài nguyên, môi trường; đẩy mạnh hợp tác kết hợp đấu tranh trên các diễn đàn quốc tế để bảo vệ các nguồn nước xuyên biên giới; giảm phát thải khí gây hiệu ứng nhà kính và thu hút các nguồn tài trợ quốc tế cho các lĩnh vực này; thúc đẩy hợp tác chặt chẽ trong khu vực ASEAN, khu vực Tiểu vùng sông Mê Công, khu vực Đông Á và với các nước trong khu vực Biển Đông./.