Tư tưởng của V.I.Lê-nin về đổi mới công tác xây dựng Đảng trong tác phẩm “Dự thảo nghị quyết về những nhiệm vụ trước mắt của công tác xây dựng Đảng”
Từ phân tích thẳng thắn tình hình, V.I.Lê-nin đã đề nghị với Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản (B) Nga quyết nghị và Đại hội của Đảng phê chuẩn bốn điểm sau:
Một là, “tuyệt đối cần tổ chức ngày càng nhiều và ngày càng rộng rãi những hội nghị đảng viên, đi đôi với những biện pháp khác, nhằm phát huy tính chủ động của các đảng viên”(1).
Đây thực chất là tư tưởng về dân chủ hóa tổ chức và sinh hoạt của Đảng nhằm nâng cao tính tích cực chính trị của đảng viên. V.I.Lê-nin nhận thấy trong Đảng xuất hiện “tâm trạng quá mệt mỏi” do phải trải qua những thách thức to lớn của cuộc chiến đấu chống thù trong, giặc ngoài để bảo vệ Chính quyền Xô-viết non trẻ; sự hạn chế tự do thảo luận trong các hội nghị đảng vốn đã ít được triệu tập do điều kiện chiến tranh. Tình trạng đó đang làm giảm tính chủ động của đảng viên, hạn chế dân chủ trong Đảng. Theo V.I.Lê-nin, để khắc phục tình trạng đó cần chuyển mạnh sang dân chủ hóa tổ chức và sinh hoạt của Đảng theo hướng tổ chức ngày càng nhiều và ngày càng rộng rãi những hội nghị đảng viên, tạo ra diễn đàn dân chủ cho đảng viên thảo luận công việc của Đảng.
V.I.Lê-nin thừa nhận, trong thời kỳ nội chiến ác liệt khó thực hiện đầy đủ chế độ dân chủ. Nhưng khi tình hình chung của nước cộng hòa đã được cải thiện thì nhiệm vụ đặt ra là “... chúng ta phấn đấu để làm sao trong đảng... công cuộc dân chủ hóa sẽ được đẩy mạnh”(2). Bởi vậy: “Vô luận thế nào thì giờ đây chúng ta cũng đã ở vào tình hình là có thể và phải tiến hành đến cùng những cuộc thảo luận hiện nay đang được tiến hành, không tự hạn chế mình chút nào”(3). Mở rộng những hội nghị đảng viên chính là tạo diễn đàn cho đảng viên tự do thảo luận công việc của Đảng.
Cần thấy các hội nghị đảng viên mà V.I.Lê-nin đề xuất không chỉ là các cuộc sinh hoạt chi bộ định kỳ mà còn là các hội nghị mở rộng khi cần thiết và có điều kiện. V.I.Lê-nin đặc biệt coi trọng việc tổ chức thảo luận tại hội nghị toàn thể rộng rãi và phản đối việc lấy thảo luận ở các tiểu ban thay thế thảo luận ở hội nghị toàn thể. Khi nói về cách tổ chức đại hội đảng sao cho dân chủ, V.I.Lê-nin từng chỉ rõ: “Thay thế các phiên họp của đại hội bằng các tiểu ban là nguy hiểm. Trong các tiểu ban, người ta thảo luận nhiều vấn đề lý thú, nhưng sau đó chúng rơi rụng mất cả, chứ không được đưa vào biên bản. Thời gian để cho các tiểu ban làm việc nghiêm túc không nhiều, tăng thêm thời gian đó bằng cách rút bớt thời gian làm việc của toàn đại hội thì không nên”(4).
Vận dụng học thuyết Mác - Lê-nin vào xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam, Đảng ta luôn quan tâm đến vấn đề tổ chức các hội nghị của Đảng nói chung, hội nghị đảng viên nói riêng, vì đây là những sinh hoạt tập thể lớn trong Đảng, nó “phát huy tính sáng tạo của đông đảo đảng viên tham gia thảo luận và quyết định những vấn đề trọng yếu của Đảng, nâng cao tinh thần trách nhiệm của đảng viên đối với vận mệnh và công tác của Đảng, lại có tác dụng tăng cường tập trung thống nhất trong Đảng.”(5) .
Để khắc phục tình trạng ít tổ chức các hội nghị đảng viên của các đảng bộ cơ sở, vừa làm giảm tính tập trung, thống nhất, vừa hạn chế quyền dân chủ của đảng viên, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng đã quyết định bổ sung thêm vào Điều lệ Đảng quy định: “Đảng bộ cơ sở họp thường lệ mỗi năm hai lần; họp bất thường khi cần”. Đây chính là chủ trương nhằm tăng cường tổ chức các hội nghị đảng viên rộng rãi hơn ở cơ sở. Vừa qua, nhiều đảng bộ cơ sở đã nghiêm túc tổ chức các hội nghị đảng viên theo quy định này. Tuy nhiên, cũng còn không ít đảng bộ cơ sở lấy lý do khó khăn về địa điểm tổ chức hội nghị, do đội ngũ đảng viên của đảng bộ quá đông hoặc vì những lý do khác, nên còn xem nhẹ hoặc tổ chức các hội nghị định kỳ hằng năm của đảng bộ thiếu nghiêm túc, chưa chất lượng.
Trong thời gian tới, cấp ủy các cấp, nhất là ở cơ sở cần thực hiện nghiêm túc chế độ hội nghị đảng viên định kỳ có chất lượng, hiệu quả cao để góp phần nâng cao tính tích cực của các đảng viên và kỷ luật của tổ chức đảng. Đặc biệt, cần đổi mới cách tổ chức hội nghị đảng viên theo hướng đưa ra hội nghị những nội dung thiết thực, những vấn đề bức xúc đặt ra trong tổ chức đảng, ở địa phương, đơn vị, và khuyến khích mọi đảng viên tham gia thảo luận.
Hai là, “lập ra những cơ quan văn đàn có khả năng thực hiện một cách có hệ thống và rộng rãi hơn nữa việc phê bình những sai lầm của đảng và nói chung việc phê bình trong nội bộ đảng (những trang báo tranh luận, v.v..)”(6).
Ở đây, V.I.Lê-nin đã nhấn mạnh đến ít nhất 2 vấn đề cấp bách: một là, đổi mới công tác tư tưởng của Đảng theo hướng thiết lập những diễn đàn tư tưởng mới, táo bạo, có thể chuyển tải công khai sự phê bình trong Đảng; hai là, những sai lầm của Đảng là khó tránh khỏi, do đó phải xây dựng thiết chế để cán bộ, đảng viên có thể tự do thường xuyên phê bình những sai lầm của Đảng. Đây chính là tư tưởng dân chủ hóa rất sâu sắc, táo bạo của V.I.Lê-nin trong lĩnh vực tư tưởng.
Vừa qua, trước yêu cầu mở rộng dân chủ trong Đảng, đã có đảng viên kiến nghị Đảng thành lập tạp chí “Tranh luận” để đảng viên có thể được tự do thể hiện quan điểm và thảo luận công việc của Đảng trong khuôn khổ tổ chức, từ đó nâng cao sự thống nhất trong Đảng. Có lẽ đã đến lúc đề xuất này cần được quan tâm xem xét nghiêm túc. Mặt khác, Trung ương cần chỉ đạo tổ chức thực hiện chủ trương của Đại hội XI của Đảng về công tác tư tưởng: “Tạo môi trường dân chủ thảo luận, tranh luận khoa học, khuyến khích tìm tòi, sáng tạo, phát huy trí tuệ của cá nhân và tập thể trong nghiên cứu lý luận. Khẩn trương ban hành quy chế dân chủ trong nghiên cứu lý luận chính trị”(7). Làm được điều này sẽ tạo lập môi trường dân chủ thúc đẩy phê bình trong Đảng, tạo điều kiện cho nghiên cứu lý luận chính trị phát triển phong phú, thật sự khoa học.
Đặc biệt, Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI) đã ra Nghị quyết “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”, chủ trương tổ chức đợt sinh hoạt tự phê bình và phê bình lớn trong toàn Đảng. Đây là chủ trương rất đúng đắn, kịp thời, cần được tổ chức thực hiện với trách nhiệm và quyết tâm chính trị cao trong toàn Đảng theo phương châm: “Nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, khách quan, không nể nang, né tránh”. Tuy nhiên, việc thực hiện đợt tự phê bình và phê bình này sẽ không đơn giản. Vì vậy, cần có nhiều biện pháp đồng bộ để bảo đảm tự phê bình và phê bình có thực chất, hiệu quả, phê bình một cách khách quan, có trách nhiệm những khuyết điểm của cán bộ, đảng viên.
Ba là, “thảo ra những quy tắc thực tiễn hoàn toàn chính xác về những biện pháp xóa bỏ tình trạng bất bình đẳng (trong điều kiện sinh hoạt, về mức lương, v.v..) giữa một bên là các “chuyên gia”, và những cán bộ có chức trách, và một bên là quần chúng, vì tình trạng bất bình đẳng này vi phạm dân chủ và là nguồn gốc gây nên sự tan rã trong đảng và làm uy tín của các đảng viên cộng sản bị giảm sút”(8).
Như vậy, từ rất sớm, V.I.Lê-nin đã phát hiện ra sự phân hóa giàu nghèo ngay trong đảng cộng sản cầm quyền và nguy cơ của nó. Đáng tiếc là lời cảnh báo của V.I.Lê-nin không được các thế hệ lãnh đạo của Đảng Cộng sản Liên Xô sau này nhận thức sâu sắc, đã để hình thành trong Đảng một tầng lớp đặc quyền, đặc lợi, quan liêu, tham nhũng, gây ra sự bất bình, mất lòng tin của đảng viên và nhân dân đối với Đảng, làm cho Đảng Cộng sản Liên Xô từng có một quá khứ hào hùng tự tan rã, sụp đổ nhanh chóng sau 74 năm cầm quyền.
Từ cảnh báo này của V.I.Lê-nin, nhìn vào thực trạng Đảng ta hiện nay cho thấy những dấu hiệu không thể xem thường. Do sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, tham nhũng chậm được ngăn chặn nên tình trạng bất bình đẳng về thu nhập, điều kiện sinh hoạt giữa bộ phận đảng viên có chức quyền với những đảng viên thường là rất lớn. Một số không nhỏ đảng viên đã lạm dụng quyền lực, địa vị công tác để thu vén lợi ích cá nhân, tích lũy được một tài sản rất lớn và sử dụng tài sản bất chính này để chạy chức, chạy quyền, xây dựng tư dinh đồ sộ, sinh hoạt xa hoa, cách biệt với đời sống nhân dân... Tình trạng này đã và đang gây ra những bất bình, lo lắng trong Đảng, làm giảm sút lòng tin của nhân dân đối với Đảng. Nếu không ngăn chặn nó sẽ là thách thức đối với vai trò lãnh đạo của Đảng và sự tồn vong của chế độ.
Để ngăn chặn tình trạng bất bình đẳng nói trên trong Đảng hiện nay, phải có quyết tâm chính trị cao và sự trong sạch của đội ngũ cán bộ lãnh đạo cấp cao với nhiều biện pháp đồng bộ, khoa học. Trước mắt, cần tập trung thực hiện thành công tự phê bình và phê bình theo Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI), trên cơ sở đó xây dựng và thực hiện cho được các quy định về giám sát thực thi quyền lực; kê khai, công khai và giám sát tài sản của cán bộ, công chức; cấm cán bộ, công chức cấu kết với giới kinh doanh; phát hiện, xử lý nghiêm minh những cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt cấp cao tham nhũng để làm gương..., qua đó củng cố niềm tin của toàn Đảng, toàn dân với Trung ương Đảng và Chính phủ.
Bốn là, “thừa nhận sự cần thiết phải thành lập Ban Kiểm tra song song với Ban Chấp hành Trung ương, thành phần ban này phải gồm những đồng chí có trình độ nhất định trong lĩnh vực công tác đảng, có kinh nghiệm nhất, không thiên vị và có khả năng thực hiện công tác kiểm tra hoàn toàn theo tinh thần của đảng. Là một cơ quan do đại hội đảng bầu ra, Ban Kiểm tra phải được quyền thu nhận mọi đơn khiếu tố và xem xét các đơn ấy, trao đổi ý kiến với Ban Chấp hành Trung ương, trong trường hợp cần thiết thì tổ chức những phiên họp chung, liên tịch với Ban Chấp hành Trung ương hoặc chuyển vấn đề cho đại hội đảng giải quyết”(9).
Từ ngày 22 đến ngày 25-9-1920, Hội nghị lần thứ IX toàn Nga của Đảng Cộng sản (B) Nga họp ở Mát-xcơ-va. Trong bài phát biểu về những nhiệm vụ trước mắt của công tác xây dựng Đảng, sau khi phân tích “những hiện tượng không lành mạnh” đã trở nên nghiêm trọng, V.I.Lê-nin đề nghị thành lập Ban Kiểm tra Trung ương của Đảng để đấu tranh với mọi sự lạm dụng và xem xét những đơn khiếu nại của các đảng viên cộng sản. Tình hình đòi hỏi cần tổ chức ra một cơ quan như vậy, vì Bộ Tổ chức và cả Ban Chấp hành Trung ương đều “rất bị bận rộn và bị bận rộn quá mức”(10), không thể có điều kiện tập trung thu nhận, xem xét các đơn khiếu nại, đấu tranh với những hiện tượng không lành mạnh trong Đảng. Từ ý kiến phát biểu tại Hội nghị, trong “Dự thảo nghị quyết về những nhiệm vụ trước mắt của công tác xây dựng Đảng”, V.I.Lê- nin chính thức đề nghị Ban Chấp hành Trung ương và đại hội sắp tới của Đảng phê chuẩn việc: “Thừa nhận sự cần thiết phải thành lập Ban Kiểm tra...”. Tư tưởng này được V.I.Lê-nin tiếp tục phát triển và triển khai trong thực tiễn hoạt động của Đảng Cộng sản (B) Nga.
Phân tích những lợi ích của việc thành lập Ban Kiểm tra song song với Ban Chấp hành Trung ương, V.I.Lê-nin cho rằng, với việc lập Ban Kiểm tra như vậy, Ban Chấp hành Trung ương sẽ được lợi cả về mặt liên hệ với quần chúng lẫn về mặt công tác của mình do được tiến hành đều đặn và có hiệu quả hơn. Ngoài ra, trong nội bộ Ban Chấp hành Trung ương, ảnh hưởng của những nhân tố thuần túy cá nhân và ngẫu nhiên sẽ giảm bớt, khiến cho nguy cơ chia rẽ cũng giảm đi(11).
Đặc biệt, V.I.Lê-nin nhận định: “Ban Chấp hành Trung ương chúng ta đã trở thành một cơ quan tập trung rất chặt chẽ và có một uy tín to lớn, nhưng công tác của cơ quan ấy lại không được đặt vào trong những điều kiện tương xứng với uy tín đó”(12). Vì vậy, với việc thiết lập Ban Kiểm tra song song với Ban Chấp hành Trung ương sẽ tạo ra được “điều kiện tương xứng” ấy, để giúp các ủy viên trung ương thực hiện tốt hơn công việc của mình, phòng ngừa những hiện tượng không lành mạnh trong công tác.
Mặt khác, với nhãn quan chính trị cực kỳ sắc sảo, V.I.Lê-nin thấy rõ dù nước Cộng hòa Xô-viết mới ra đời chưa lâu, nhưng bọn quan liêu - một “thứ đồ cũ bỏ đi”- đang tồn tại không những trong các cơ quan xô-viết mà cả trong các cơ quan đảng nữa(13). Với việc thiết lập Ban Kiểm tra song song với Ban Chấp hành Trung ương, nó sẽ đủ sức cùng với cơ quan thanh tra công nông, “tiến hành những cuộc lục soát trong đống đồ cũ bỏ đi ấy”(14), để loại bỏ những kẻ quan liêu, lạm quyền trong bộ máy đảng và nhà nước.
Theo quan điểm của V.I.Lê-nin, để Ban Kiểm tra có thể hoàn thành nhiệm vụ quan trọng nhưng rất khó khăn, nó phải có “một địa vị độc lập hơn Bộ Tổ chức và do đại hội bầu ra”(15), và “chỉ chịu trách nhiệm trước đại hội đảng mà thôi”(16). Khi đó, Ban Chấp hành Trung ương của Đảng cùng với Ban Kiểm tra Trung ương sẽ hoàn toàn trở thành một hội nghị tối cao của Đảng(17). Ban Kiểm tra Trung ương có nhiệm vụ tham dự hội nghị toàn thể Ban Chấp hành Trung ương, tham dự những phiên họp của Bộ Chính trị(18).
Là một cơ quan do đại hội đảng bầu ra, Ban Kiểm tra phải được quyền thu nhận mọi đơn thư khiếu tố và xem xét các đơn ấy, trao đổi ý kiến với Ban Chấp hành Trung ương, trong trường hợp cần thiết thì tổ chức những phiên họp chung, liên tịch với Ban Chấp hành Trung ương hoặc chuyển vấn đề cho Đại hội giải quyết(19).
Ủy viên Ban Kiểm tra “có hết thảy mọi quyền hạn” của ủy viên Ban Chấp hành Trung ương(20); có nhiệm vụ dưới sự lãnh đạo của Đoàn chủ tịch của họ, xem xét đều đặn tất cả những hồ sơ và tài liệu của Bộ Chính trị. Những ủy viên Ban Kiểm tra Trung ương sẽ phải là một nhóm cố kết, “không được vị nể cá nhân”, “phải giữ gìn sao cho không một quyền uy nào của Tổng bí thư hay là của một ủy viên nào trong Ban chấp hành trung ương có thể ngăn cản mình chất vấn, kiểm tra các hồ sơ, và nói chung, nắm được tình hình hết sức rõ ràng và xử lý mọi việc hết sức đúng đắn”(21).
Theo đề nghị của V.I. Lê-nin về thành lập cơ quan kiểm tra của Đảng, Đại hội X của Đảng Cộng sản (B) Nga (tháng 3-1921) đã bầu Ban Kiểm tra Trung ương gồm 7 ủy viên chính thức và 3 ủy viên dự khuyết. Đại hội giao cho Ban Kiểm tra nhiệm vụ đấu tranh chống chủ nghĩa quan liêu, bệnh địa vị, chống việc lạm dụng địa vị công tác và địa vị đảng của các đảng viên, chống phá hoại những quan hệ đồng chí trong nội bộ Đảng(22). Số lượng ủy viên Ban Kiểm tra Trung ương tăng dần qua các kỳ đại hội đảng, đến Đại hội XVI của Đảng (năm 1930), đã lên tới 187 ủy viên. Tuy nhiên, sau đó số lượng ủy viên Ban Kiểm tra Trung ương giảm dần. Từ Đại hội XVIII (tháng 3-1939) của Đảng Cộng sản (B) toàn Liên Xô, đã không tiến hành bầu cơ quan kiểm tra của Đảng tại đại hội nữa. Phải chăng sự xa rời tư tưởng của V.I.Lê-nin về cơ quan kiểm tra của Đảng đã là một trong những nguyên nhân làm gia tăng tình trạng mất dân chủ, sùng bái cá nhân, kiêu ngạo cộng sản và suy thoái nghiêm trọng trong Đảng Cộng sản Liên Xô sau này?
Sau gần hai năm thành lập Ban Kiểm tra Trung ương, V.I.Lê-nin nhận thấy trong điều kiện chỉ có một đảng cầm quyền duy nhất, cần thiết và có thể hợp nhất một cách độc đáo bộ máy kiểm tra của Đảng với bộ máy kiểm tra của chính quyền. Theo V.I. Lê-nin, việc hợp nhất Bộ Dân ủy thanh tra công nông với Ban Kiểm tra Trung ương sẽ có ích cho cả hai cơ quan đó. Một mặt, Bộ Dân ủy thanh tra công nông sẽ vì thế mà có được một uy tín rất cao; mặt khác, Ban Chấp hành Trung ương của Đảng cùng với Ban Kiểm tra Trung ương sẽ hoàn toàn trở thành một hội nghị tối cao của Đảng, tổ chức và công tác của mình có kế hoạch, hợp lý và hệ thống hơn, bảo đảm được sự liên hệ với quần chúng thật rộng rãi, bằng cách thông qua những phần tử ưu tú trong công nhân và nông dân(23).
Ở nước ta, trong thời gian qua, công tác kiểm tra được các cấp ủy, tổ chức đảng quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo, có nhiều đổi mới và đạt được những kết quả quan trọng, góp phần tích cực vào thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị, tăng cường kỷ cương, kỷ luật, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng. Tuy nhiên, chất lượng và hiệu quả công tác kiểm tra chưa cao, nhiều khuyết điểm, sai lầm của đảng viên và tổ chức đảng chậm được phát hiện và xử lý. Công tác kiểm tra của nhiều tổ chức đảng còn mang tính hình thức, chất lượng, hiệu quả thấp. Việc kiểm tra, giám sát người đứng đầu còn gặp nhiều khó khăn; trong xử lý vi phạm còn hiện tượng “nhẹ trên, nặng dưới”.
Một trong những nguyên nhân của tình trạng yếu kém đó là do vị thế của ủy ban kiểm tra chưa đủ mạnh, thẩm quyền còn hạn chế. Với việc thành lập ủy ban kiểm tra bằng cách để cấp ủy cùng cấp bầu ra thì dù quy định cho ủy ban kiểm tra quyền hạn như thế nào, đây vẫn là một cơ quan mang tính giúp việc cho cấp ủy, phụ thuộc hoàn toàn vào cấp ủy (nhất là người đứng đầu cấp ủy) về nhân sự, phương hướng hoạt động, điều kiện làm việc. Do đó, yêu cầu ủy ban kiểm tra thực hiện giám sát, kiểm tra người đứng đầu và cấp ủy cùng cấp là rất khó khăn. Hơn nữa, trong lúc còn “Một số cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp chưa nêu gương, chưa làm tròn trách nhiệm trong đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu”(24) thì ủy ban kiểm tra không thể có “một địa vị độc lập” cần thiết để thực hiện đúng vai trò, nhiệm vụ của mình.
Trong bối cảnh đảng viên lạm dụng quyền lực, vi phạm pháp luật không giảm như hiện nay và mức độ ngày càng tinh vi, khó phát hiện hơn, Đảng cần tăng thẩm quyền cho ủy ban kiểm tra các cấp để giám sát, kiểm tra đạt hiệu quả cao hơn, đáp ứng tốt hơn yêu cầu giám sát, kiểm tra trong giai đoạn mới.
----------------------------------------------------
(1) V.I.Lê-nin: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, t. 41, tr. 348
(2), (3) V.I.Lê-nin: Sđd, t. 41, tr. 342, 340
(4) V.I.Lê-nin: Sđd, t. 10, tr.121
(5) Văn kiện Đảng: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 2000, t. 21, tr. 688
(6) V.I.Lê-nin: Sđd, t. 41, tr. 348
(7) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 256
(8) V.I.Lê-nin: Sđd, t. 41, tr. 348
(9), (10) V.I.Lê-nin: Sđd, t. 41, tr. 348, 346
(11) Xem: V.I.Lê-nin: Sđd, t. 45, tr. 440
(12) V.I.Lê-nin: Sđd, t. 45, tr. 440
(13), (14) Xem: V.I.Lê-nin: Sđd, t. 45, tr. 451
(15) V.I.Lê-nin: Sđd, t. 41, tr.344
(16), (17), (18) V.I.Lê-nin: Sđd, t. 45, tr. 235, 437, 436, 439
(19) Xem: V.I.Lê-nin: Sđd, t. 41, tr. 348
(20), (21) Xem: V.I.Lê-nin: Sđd, t. 45, tr. 436, 440
(22) Xem: Lịch sử Đảng Cộng sản Liên-xô, Nxb. Sự thật, Hà nội, 1960, tr. 489
(23) Xem: V.I.Lê-nin: Sđd, t. 45, tr. 436 - 437
(24) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr. 268 - 269
Nguy cơ khủng hoảng nợ tại Eurozone quay trở lại  (20/04/2012)
Ra mắt Đại diện biên giới, đoạn biên giới số 3  (20/04/2012)
G-24: Vai trò của các nước đang phát triển lớn hơn  (20/04/2012)
Thủ tướng duyệt Chiến lược Tài chính đến năm 2020  (20/04/2012)
- Chủ nghĩa thực dân số trong thời đại số và những vấn đề đặt ra
- Phương hướng, giải pháp nâng cao chất lượng công tác dân vận của Quân đội nhân dân Việt Nam, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn mới
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển đội ngũ nhà giáo và sự vận dụng của Đảng trong giai đoạn hiện nay
- Ngành y tế với công tác chăm sóc, bảo vệ và phát huy vai trò người cao tuổi trong giai đoạn hiện nay
- Quan điểm, chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về công tác tuyên truyền, vận động quần chúng nhân dân - Một số vấn đề đặt ra đối với việc vận dụng, phát triển trong kỷ nguyên mới của đất nước
-
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Cuộc chiến đấu bảo vệ Thành cổ Quảng Trị năm 1972 - khát vọng độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - Bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX -
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Chiến thắng Điện Biên Phủ - Bài học lịch sử và ý nghĩa đối với sự nghiệp đổi mới hiện nay -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Đổi mới tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị “tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả” theo tinh thần định hướng của Đồng chí GS, TS, Tổng Bí thư Tô Lâm