Vừa tăng trưởng nhanh, vừa bảo tồn vùng sinh thái quý hiếm ở đồng bằng sông Cửu Long
TCCS - Vừa tăng trưởng nhanh, vừa bảo vệ môi trường để phát triển bền vững là niềm mong ước của các quốc gia. Song, dường như chưa ở đâu đạt được cả hai mục tiêu này cùng tốt đẹp như nhau. Đồng bằng sông Cửu Long - một vùng sinh thái nhiệt đới rất đặc biệt - có cần phải đặt ra vấn đề này không? và làm thế nào để cùng đạt cả hai mục tiêu ấy?
Phát triển công nghiệp tạo ra tốc độ tăng trưởng nhanh
Hiện nay, các nước có tốc độ tăng trưởng GDP khoảng 10%/năm được coi là tăng trưởng nhanh. Đối với từng khu vực trong một quốc gia những vùng có tốc độ tăng trưởng GDP cao hơn tốc độ trung bình của cả nước thì được coi là tăng trưởng nhanh.
Suốt một thời gian dài trước xảy ra khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu, nước ta đạt tốc độ tăng trưởng GDP từ 7 đến hơn 8%/ năm, trở thành một trong những nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng nhanh của thế giới từ khi thực hiện đường lối công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Trong thời kỳ còn là nền kinh tế nông nghiệp, kinh tế miền Đông Nam Bộ không bằng đồng bằng sông Cửu Long. Nhưng từ khi trở thành vùng kinh tế trọng điểm của cả nước và mở rộng kêu gọi đầu tư nước ngoài để phát triển công nghiệp thì miền Đông Nam Bộ đã vượt qua đồng bằng sông Cửu Long và đạt tốc độ tăng trưởng GDP nhanh nhất so với các vùng trong cả nước. Vùng này đã đóng góp cho tỷ lệ tăng trưởng của đất nước 50% GDP, 57% sản lượng công nghiệp, 60% kim ngạch xuất khẩu và 47% ngân sách nhà nước.
Năm năm qua, vùng đồng bằng sông Cửu Long có tốc độ tăng trưởng trung bình 10,4%/năm, cao hơn tốc độ cả nước nhưng vẫn thấp hơn miền Đông Nam Bộ, bởi điểm xuất phát thấp nên giá trị tổng sản phẩm không lớn. Tốc độ tăng trưởng GDP của đồng bằng sông Cửu Long có phần đóng góp lớn của 31 khu công nghiệp và gần 200 cụm công nghiệp đã đi vào hoạt động.
Thực tế nêu trên cho thấy, phát triển công nghiệp là yếu tố căn bản tạo ra tốc độ tăng trưởng nhanh cho đất nước và các vùng. Do vậy, để đồng bằng sông Cửu Long đạt tốc độ tăng trưởng nhanh hơn, cần đẩy mạnh kêu gọi đầu tư và phát triển sản xuất công nghiệp nhiều hơn nữa.
So sánh về hệ quả môi trường của phát triển công nghiệp giữa miền Đông Nam Bộ và đồng bằng sông Cửu Long
Lợi thế phát triển công nghiệp của đồng bằng sông Cửu Long thấp hơn nhiều so với miền Đông Nam Bộ cả về mặt bằng xây dựng nhà xưởng, giao thông đường bộ và đường hàng không. Riêng giao thông đường sông thì có lợi thế do có hệ thống sông Mê Kông với rất nhiều nhánh lớn chạy theo hướng Tây Bắc xuống Đông Nam ra biển. Lợi thế về chi phí vận tải rẻ của đường thủy có thể bù đắp một phần bất lợi thế so với Đông Nam Bộ. Mặc dù không có nhiều lợi thế như miền Đông Nam Bộ, nhưng đồng bằng sông Cửu Long vẫn có thể kêu gọi đầu tư phát triển công nghiệp để tạo ra tốc độ tăng trưởng nhanh hơn. Tuy nhiên, hệ quả tiêu cực đối với môi trường của sản xuất công nghiệp ở vùng sinh thái đặc biệt này là không thể tránh khỏi và lớn hơn rất nhiều so với miền Đông Nam Bộ. Điều này được chứng minh như sau:
Đất nước ta bước vào công nghiệp hóa khá muộn so với các nước khác, nên khi kêu gọi đầu tư, các đối tác đầu tư vào nước ta thường ở các quốc gia giàu có và đang sở hữu những công nghệ tiên tiến, đồng thời cũng thừa không ít công nghệ lạc hậu. Các nhà đầu tư cho rằng Việt Nam là môi trường đầu tư hấp dẫn vì chính trị ổn định và nguồn lao động dồi dào... Đó là sự thật, song cũng là cách nói khôn ngoan để che đậy mục đích xuất khẩu những công nghệ lạc hậu, không còn đáp ứng các tiêu chuẩn bảo vệ môi trường ở nước họ và ở những nước tiên tiến khác, đồng thời khai thác được lao động giá rẻ, chi phí dịch vụ thấp... Do đó hầu hết các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ở nước ta đều sử dụng công nghệ không cao và gây ô nhiễm cao. Tình trạng gây ô nhiễm ở các khu công nghiệp thuộc tỉnh Đồng Nai là điển hình: 8 khu công nghiệp gây ô nhiễm nghiêm trọng nhất đã thải ra 45.000 m3 nước thải công nghiệp trong 1 ngày đêm, các khu khác thải ra 12.000 m3, tổng cộng nước thải công nghiệp chưa xử lý của tỉnh này là hơn 100.000 m3/một ngày đêm.
Tính đến giữa năm 2008, ở đồng bằng sông Cửu Long có khoảng 30.000 ha đất nông nghiệp được quy hoạch làm khu công nghiệp, chỉ mới có 20 khu công nghiệp và 177 cụm công nghiệp đi vào hoạt động nhưng hằng năm đã thải ra 47,2 triệu m3 nước thải công nghiệp và 220.000 tấn rác tải công nghiệp. Các đô thị ở đồng bằng sông Cửu Long có 3,3 triệu dân, hằng năm thải ra 102 triệu m3 nước thải sinh hoạt và 600.000 tấn rác thải sinh hoạt. Khối lượng chất thải ấy đã làm cho khu vực trung tâm là ven sông Hậu bị ô nhiễm cấp độ 2, rạch Bò ót ở Ô Môn ô nhiễm cấp độ 4, rạch Sang Trắng ô nhiễm cấp độ 7.
Quy mô phát triển công nghiệp ở đồng bằng sông Cửu Long còn khiêm tốn so với miền Đông Nam Bộ, khối lượng chất thải công nghiệp cũng chỉ mới tương đương với một tỉnh lớn nhất của miền Đông Nam Bộ. Theo phê duyệt của Chính phủ, đến 2010 diện tích dành cho công nghiệp sẽ là 50.000 ha và số lượng các khu công nghiệp tăng lên thì mức độ ô nhiễm cũng sẽ tăng cao hơn rất nhiều. Tuy nhiên, vấn đề không phải chỉ ở khối lượng mà quan trọng hơn là khả năng khống chế, khắc phục và tác hại của ô nhiễm ở vùng sinh thái ngập nước khó khăn hơn nhiều so với vùng đất đỏ miền Đông Nam Bộ.
Ở miền Đông Nam Bộ, khả năng lan tỏa của ô nhiễm có phần được hạn chế do ít sông ngòi hơn và mặt đất không bị ngập nước nên có khả năng khoanh vùng để khống chế hoặc có thể chôn rác thải dưới lòng đất nhằm hạn chế sự lan tỏa ô nhiễm đến các khu dân cư hoặc các khu canh tác.
Đồng bằng sông Cửu Long là vùng sinh thái ngập nước nên khả năng lan tỏa của chất ô nhiễm theo dòng nước là rất nhanh và rộng, khó kiểm soát được. Ngay cả biện pháp chôn rác thải cũng không thể ngăn chặn được sự lan tỏa ô nhiễm vì tính chất thẩm thấu của nền đất thấp, ngập nước.
Từ những số liệu và sự so sánh trên có thể suy ra, tốc độ phát triển công nghiệp ở đồng bằng sông Cửu Long còn hạn chế hơn rất nhiều so với miền Đông Nam Bộ nhưng mức độ ô nhiễm đã được coi là “báo động cao”. Nếu đẩy mạnh công nghiệp hóa ở đồng bằng sông Cửu Long như miền Đông Nam Bộ hiện nay, chắc chắn toàn bộ hệ sinh thái ngập nước sẽ bị ô nhiễm và tác hại của nó là không lường được. Nguồn nước bị ô nhiễm thì ngành thủy sản sẽ chịu thiệt hại lớn, không những giảm mạnh về sản lượng do tôm cá chết hàng loạt (đã từng xảy ra ở một số nơi), đồng thời cũng không đạt tiêu chuẩn xuất khẩu và không tiêu thụ được ngay cả ở thị trường trong nước bởi ảnh hưởng đến sức khỏe con người. Đối với cây lúa nước cũng vậy, chúng không chịu được dòng nước ô nhiễm. Nói cách khác, mức độ ô nhiễm môi trường tăng lên thì sản lượng và chất lượng nông sản và thủy sản sẽ giảm sút là điều không tránh khỏi. Đồng bằng sông Cửu Long không còn tạo ra được 53% nguồn thủy sản của cả nước và 92% lượng gạo xuất khẩu của cả nước thì điều gì sẽ xảy ra cho nền kinh tế đất nước? Mặt khác, việc khắc phục ô nhiễm và phục hồi môi trường ở vùng ngập nước sẽ mất thời gian rất dài và tốn kém nhiều hơn so với các vùng khác.
Triết lý phát triển đồng bằng sông Cửu Long và tư duy lựa chọn
Trước hết cần khẳng định, vùng sinh thái nhiệt đới ngập nước của đồng bằng sông Cửu Long là một trong số ít vùng sinh thái quý hiếm thiên nhiên ban tặng cho loài người mà khả năng nhân tạo không thể làm ra hệ sinh thái ở vùng nào khác tương đương như thế. Hệ sinh thái ấy cung cấp nguồn lương thực thực phẩm rất dồi dào và quý giá đối với cuộc sống của con người là lúa gạo và thủy sản. Cuộc khủng hoảng lương thực trên quy mô toàn cầu hiện nay (theo đánh giá của tổ chức nông lương thế giới - FAO), sau gần 40 năm, năm 2009 thế giới đã vượt qua ngưỡng trên 1 tỷ người đói) như một lời cảnh báo của thiên nhiên đối với loài người là đừng quá say sưa chạy theo cái lợi trước mắt của công nghiệp mà coi nhẹ bảo vệ môi trường cho phát triển nông nghiệp bền vững. Thực tế cho thấy, khủng hoảng lương thực nguy hiểm hơn bất kỳ loại khủng hoảng nào khác vì không có gì có thể thay thế được nhu cầu hằng ngày ăn để sống của con người, khủng hoảng lương thực là con đường nhanh nhất dẫn đến rối loạn xã hội.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay, tư duy phát triển đã thay đổi từ quan niệm “độc lập kinh tế” theo kiểu “tự cấp tự túc” chuyển sang xu hướng chuyên môn hóa, chuyên nghiệp hóa để đạt năng suất và chất lượng sản phẩm thật cao mới đủ sức cạnh tranh và tồn tại trong thị trường thế giới đầy biến động. Các sản phẩm khác có thể mua được trên thị trường tự do toàn cầu từ những ngành chuyên môn hóa, ở các quốc gia khác. Điển hình như Xin-ga-po, họ chuyên môn hóa và chuyên nghiệp hóa về dịch vụ tài chính quốc tế, tập trung phát triển công nghệ cao nên họ phải nhập khẩu lương thực, thậm chí phải nhập cả nước sinh hoạt nhưng quốc gia này vẫn trở thành một nền kinh tế mạnh nhất ASEAN. Các nước ả -rập giàu có như vậy, họ chỉ chuyên môn hóa ngành khai thác và bán dầu khí để mua mọi thứ khác.
Ở Nam Bộ, nếu miền Đông Nam Bộ là một công xưởng lớn sản xuất công nghiệp thì miền Tây Nam Bộ là một kho lương thực lớn. Hai thế mạnh ấy kết hợp với nhau tạo thành tiềm lực kinh tế vững mạnh của Nam Bộ. Hai khu vực này lại nằm sát bên nhau, trong cơ cấu thị trường nội địa nên khả năng bổ sung cho nhau những lợi thế của mình là hoàn toàn thuận lợi. Vậy đồng bằng sông Cửu Long có nhất thiết phải phát triển công nghiệp trong điều kiện khó khăn hơn và phải chấp nhận nguy cơ cao về sự biến mất của một vùng sinh thái ngập nước rất quý hiếm hay không?
Với tiềm năng nông nghiệp to lớn của vùng sinh thái ngập nước, nếu đồng bằng sông Cửu Long phát triển theo hướng hiện đại hóa nông nghiệp bằng công nghệ sinh học sẽ vừa có thể bảo tồn được vùng sinh thái quý hiếm, vừa có thể trở thành vựa lúa lớn của thế giới và có khả năng chi phối giá lương thực toàn cầu. Điều đó hoàn toàn có tính hiện thực, vì ngày nay Việt Nam đã là nước xuất khẩu gạo đứng thứ hai thế giới và đồng bằng sông Cửu Long cung cấp 92% lượng gạo xuất khẩu ấy.
Nhìn về phía trước, sự phát triển của đồng bằng sông Cửu Long sẽ phải đứng trước sự lựa chọn một trong hai con đường chứa đựng những khả năng khác nhau:
Con đường thứ nhất, phát triển nhanh công nghiệp sẽ đạt được tốc độ tăng tưởng GDP nhanh hơn nhưng có nguy cơ rất cao về làm hủy hoại môi trường quý hiếm và đánh mất vị thế hàng đầu về xuất khẩu lương thực, thủy sản trên thị trường thế giới.
Con đường thứ hai, hạn chế phát triển công nghiệp, tập trung vào hiện đại hóa nông nghiệp thông qua công nghệ sinh học, chấp nhận một tốc độ tăng trưởng GDP không nhanh như công nghiệp nhưng bảo tồn được hệ sinh thái quý hiếm và giữ vững vị thế hàng đầu về xuất khẩu lương thực, thủy sản.
Thực tế phát triển kinh tế những năm qua ở Nam Bộ cho thấy, không có con đường thứ ba mang tính duy ý chí là “vừa công nghiệp hóa để tăng trưởng GDP nhanh vừa bảo vệ được môi trường để phát triển bền vững”, vì trình độ công nghệ của loài người ngày nay chưa khắc phục được hệ quả ô nhiễm môi trường của các ngành công nghiệp và chưa tạo được các loại cây trồng vật nuôi không bị ảnh hưởng bởi ô nhiễm môi trường.
Đồng bằng sông Cửu Long đáng quý như một viên ngọc xanh, không nên để nó bị vẩn đục vì ô nhiễm công nghiệp, cũng có thể coi đó là triết lý phát triển và bảo vệ vùng sinh thái đặc biệt mà thiên nhiên ban tặng cho chúng ta./.
Những nội dung chủ yếu của Chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2011 - 2020 và nhiệm vụ trọng tâm của năm 2011  (04/01/2011)
Mục lục Hồ sơ sự kiện số 147 (24-12-2010)  (04/01/2011)
Những vấn đề đặt ra trong phân cấp nhà nước về quản lý kinh tế - xã hội  (04/01/2011)
Một công cụ hữu hiệu, góp phần giáo dục tư tưởng và bảo vệ sự thật  (04/01/2011)
- Chủ nghĩa thực dân số trong thời đại số và những vấn đề đặt ra
- Phương hướng, giải pháp nâng cao chất lượng công tác dân vận của Quân đội nhân dân Việt Nam, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn mới
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển đội ngũ nhà giáo và sự vận dụng của Đảng trong giai đoạn hiện nay
- Ngành y tế với công tác chăm sóc, bảo vệ và phát huy vai trò người cao tuổi trong giai đoạn hiện nay
- Quan điểm, chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về công tác tuyên truyền, vận động quần chúng nhân dân - Một số vấn đề đặt ra đối với việc vận dụng, phát triển trong kỷ nguyên mới của đất nước
-
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Cuộc chiến đấu bảo vệ Thành cổ Quảng Trị năm 1972 - khát vọng độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - Bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX -
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Chiến thắng Điện Biên Phủ - Bài học lịch sử và ý nghĩa đối với sự nghiệp đổi mới hiện nay -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Đổi mới tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị “tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả” theo tinh thần định hướng của Đồng chí GS, TS, Tổng Bí thư Tô Lâm