Hiến pháp năm 1992 về công tác đối ngoại và việc sửa đổi, bổ sung

TS. Bùi Ngọc Thanh Nguyên Ủy viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội, nguyên Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội
21:29, ngày 23-04-2012
TCCSĐT- Xuất phát từ tình hình và nhiệm vụ cách mạng của mỗi giai đoạn khác nhau, công tác đối ngoại được quy định trong mỗi bản hiến pháp có phạm vi, mức độ khác nhau, nhưng đều theo một xu thế chung là ngày càng được mở rộng và phát triển. Công tác đối ngoại được quy định tại Điều 14 của Hiến pháp năm 1992 cũng không nằm ngoài xu thế chung đó.
1. Lược sử về công tác đối ngoại qua các bản hiến pháp

- Hiến pháp năm 1946, bản Hiến pháp đầu tiên ra đời sau Cách mạng Tháng Tám, khi dân tộc Việt Nam đã lật đổ ách áp bức của đế quốc, thực dân, phong kiến, lập nên nước Việt Nam dân chủ cộng hòa - Nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á. Nhiệm vụ cách mạng của dân tộc ta lúc này là giữ vững thành quả cách mạng, bảo toàn lãnh thổ, giành độc lập hoàn toàn và kiến thiết quốc gia trên nền tảng dân chủ. Hiến pháp được xây dựng trên ba nguyên tắc căn bản: Đoàn kết toàn dân, không phân biệt giống nòi, gái trai, giai cấp, tôn giáo; bảo đảm các quyền tự do dân chủ; thực hiện chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân.

Lời nói đầu của Hiến pháp năm 1946 trịnh trọng tuyên bố: “Với tinh thần đoàn kết, phấn đấu sẵn có của toàn dân, dưới một chính thể dân chủ rộng rãi, nước Việt Nam độc lập và thống nhất tiến bước trên đường vinh quang, hạnh phúc, cùng nhịp với trào lưu tiến bộ của thế giới và ý nguyện hòa bình của nhân loại”. Đây là đường lối đối ngoại của một nhà nước non trẻ mang tính chất khái quát, cô đọng nhưng lại rất rộng mở được ghi nhận bởi Hiến pháp.

- Hiến pháp năm 1959 ra đời trong bối cảnh miền Bắc hoàn toàn được giải phóng, nhưng miền Nam còn bị đế quốc và phong kiến thống trị, nước nhà tạm thời còn bị chia cắt hai miền. Cách mạng Việt Nam chuyển sang một giai đoạn mới. Nhân dân ta vừa ra sức củng cố, đưa miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội, vừa tiếp tục đấu tranh thống nhất nước nhà để hoàn thành nhiệm vụ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trên phạm vi cả nước.

Trong giai đoạn mới của cách mạng, đất nước cần phải có một bản hiến pháp tương thích với tình hình, nhiệm vụ cách mạng mới. Bản hiến pháp này quy định trách nhiệm và quyền hạn của các cơ quan nhà nước, quyền lợi và nghĩa vụ của công dân, nhằm phát huy sức sáng tạo to lớn của nhân dân ta trong công cuộc xây dựng nước nhà, thống nhất và bảo vệ Tổ quốc. Trên thế giới lúc này, các nước xã hội chủ nghĩa đã trở thành một hệ thống rộng lớn, hùng mạnh. Để tập hợp lực lượng ủng hộ cách mạng Việt Nam, công tác đối ngoại lúc này có vai trò to lớn và đặc biệt quan trọng. Vì thế, trong Lời nói đầu của Hiến pháp năm 1959 đã khẳng định, “nhân dân ta quyết tăng cường hơn nữa sự đoàn kết nhất trí với các nước anh em trong phe xã hội chủ nghĩa đứng đầu là Liên Xô vĩ đại, tăng cường đoàn kết với nhân dân các nước Á Phi và nhân dân yêu chuộng hòa bình trên thế giới... Nhân dân ta nhất định xây dựng thành công một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, góp phần xứng đáng vào công cuộc bảo vệ hòa bình ở Đông Nam châu Á và thế giới”.

- Hiến pháp năm 1980 ra đời sau khi nhân dân ta giành được thắng lợi trọn vẹn trong cuộc tổng tiến công và nổi dậy mà đỉnh cao là chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử Mùa Xuân năm 1975, thống nhất đất nước. Ngày 2-7-1976, nước Việt Nam dân chủ cộng hòa được Quốc hội nước Việt Nam đổi tên là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam nhất thiết phải có một bản Hiến pháp mới nhằm thể chế hóa đường lối cách mạng trong giai đoạn mới, đó là Hiến pháp của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi cả nước.

Trong bối cảnh tình hình thế giới nói chung, và phe xã hội chủ nghĩa nói riêng, có những biến động hết sức phức tạp, nhiệm vụ công tác đối ngoại lúc này cũng vô cùng nặng nề. Khác với các bản hiến pháp năm 1946 và năm 1959, trong Hiến pháp năm 1980, công tác đối ngoại, ngoài được ghi trong Lời nói đầu, còn được quy định thành một điều khá trang trọng (Điều 14), với nội hàm rất phong phú và sâu rộng: “Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tăng cường tình hữu nghị anh em, tình đoàn kết chiến đấu và quan hệ hợp tác về mọi mặt với Liên Xô, Lào, Cam-pu-chia và các nước xã hội chủ nghĩa khác trên cơ sở chủ nghĩa Mác-Lênin và chủ nghĩa quốc tế vô sản; bảo vệ và phát triển quan hệ hữu nghị với các nước láng giềng, đoàn kết với nhân dân các nước đang đấu tranh vì độc lập dân tộc và tiến bộ xã hội; thực hiện chính sách cùng tồn tại hòa bình giữa các nước có chế độ chính trị và xã hội khác nhau trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng và các bên cùng có lợi; tích cực ủng hộ và góp phần vào cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới chống chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa thực dân cũ và mới, chủ nghĩa bá quyền, chủ nghĩa phân biệt chủng tộc, vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội”.  

- Hiến pháp năm 1992 ra đời khi công cuộc đổi mới toàn diện đất nước (từ năm 1986) do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo đã đạt được những thành tựu bước đầu có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Tình hình kinh tế, chính trị, xã hội đã có sự chuyển biến sâu sắc và nhanh chóng. Đại hội VI của Đảng - Đại hội của đổi mới, đã xác định xây dựng nền kinh tế sản xuất hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự điều tiết của Nhà nước (sau này là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa). Thuật ngữ “hệ thống chính trị” được thay thế cho thuật ngữ “chuyên chính vô sản”. Hệ thống chính trị bao gồm Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc cùng các tổ chức thành viên, các tổ chức chính trị - xã hội; tự do, dân chủ được phát huy rộng rãi. Đời sống của nhân dân bước đầu được cải thiện; các quyền lợi, trước hết là quyền lợi về kinh tế được bảo đảm hơn. Thực tiễn đó đòi hỏi phải có một bản hiến pháp phù hợp với đường lối đổi mới để xây dựng một cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc của nhân dân ở một tầm cao mới, thúc đẩy sự phát triển tiến bộ của xã hội. Đảng ta một lần nữa xác định việc mở rộng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy tư duy độc lập; sức sáng tạo của nhân dân lao động được tôn trọng và đề cao. Mục tiêu xây dựng một xã hội “Dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh” được xác lập và được thực thi trên thực tế. Trên tinh thần đó, Quốc hội khóa VIII, kỳ họp thứ 6 năm 1989 đã quyết định sửa đổi Hiến pháp năm 1980 để đáp ứng yêu cầu tình hình nhiệm vụ mới của cách mạng. Đến kỳ họp thứ 11 (ngày 15-4-1992), Quốc hội đã nhất trí biểu quyết thông qua Hiến pháp năm 1992.

2. Nội dung công tác đối ngoại tại Hiến pháp năm 1992

Trong bối cảnh nền chính trị thế giới khi ấy trải qua những chấn động sâu sắc, như Liên bang Xô Viết tan rã, hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu sụp đổ, xu thế quốc tế hóa, toàn cầu hóa phát triển nhanh chóng..., công tác đối ngoại đứng trước những khó khăn mới. Tại Đại hội VII (năm 1991), Đảng ta đã đưa ra phương châm: Việt Nam muốn là bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển. Với đường lối đổi mới đúng đắn, với tư duy cách mạng, chiến lược và sách lược mềm dẻo, hợp lý của Đảng, Hiến pháp năm 1992 đã thể hiện một đường lối đối ngoại sâu sắc, toàn diện, phù hợp với tình hình quốc tế và trong nước; tạo tiền đề cho việc phát triển, mở rộng công tác đối ngoại các giai đoạn tiếp theo.

Theo Điều 14 Hiến pháp năm 1992, “Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thực hiện chính sách hòa bình, hữu nghị, mở rộng giao lưu và hợp tác với tất cả các nước trên thế giới, không phân biệt chế độ chính trị và xã hội khác nhau, trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng và các bên cùng có lợi; tăng cường tình đoàn kết hữu nghị và quan hệ hợp tác với các nước xã hội chủ nghĩa và các nước láng giềng; tích cực ủng hộ và góp phần vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội”. Công tác đối ngoại thể hiện trong Hiến pháp năm 1992 là bước tiến quan trọng trong lịch sử lập hiến của nước ta. Có thể nói đây là lần đầu tiên trong tiến trình lập hiến, công tác đối ngoại Việt Nam được tiếp cận một cách có hệ thống, đối với toàn thế giới, thay cho cách tiếp cận khu vực, bộ phận theo hệ tư tưởng trước đây. Theo đó, chính sách đối ngoại của nước ta hướng tới sự hội nhập vào nền văn minh của thế giới, không phân biệt sự khác nhau giữa các nước về chế độ chính trị, xã hội, đồng thời vẫn bảo tồn và phát huy cao độ tính độc lập, bản sắc dân tộc Việt Nam. Chúng ta đã chủ động tham gia vào sự phân công lao động quốc tế, đóng vai trò là một nhân tố năng động trong hệ thống kinh tế quốc tế và khu vực; ngoại giao kinh tế đã gặt hái được những thành quả to lớn.

Trong phát triển, mở rộng đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, Đảng ta coi mục tiêu công tác đối ngoại là góp phần củng cố môi trường quốc tế để phát triển kinh tế; lấy việc giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển kinh tế - xã hội là lợi ích cao nhất của đất nước. Trong chủ trương, đường lối, chính sách đối ngoại, Đảng, Nhà nước ta luôn nhấn mạnh đến nguyên tắc vì độc lập, thống nhất và chủ nghĩa xã hội, nhưng phải sáng tạo, năng động về sách lược.

Với những thành tựu mà đất nước đạt được, Đại hội IX của Đảng (năm 2001) xác định phương châm “Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế”. Như vậy, những quốc gia tôn trọng độc lập, chủ quyền, mong muốn thiết lập và mở rộng quan hệ hữu nghị và hợp tác bình đẳng cùng có lợi với Việt Nam đều là đối tác của Việt Nam; bất kể thế lực nào có âm mưu và hành động chống phá mục tiêu của nước ta trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đều là đối tượng phải kiên quyết đấu tranh; trong đối tượng có mặt cần tranh thủ hợp tác; trong một số đối tác có thể có mặt khác biệt, thậm chí là mâu thuẫn cũng phải đấu tranh. Điều đó có nghĩa là, phải nắm vững hai mặt “hợp tác” và “đấu tranh” trong công tác đối ngoại; thực hiện chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ đi đôi với đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế; bảo đảm lợi ích dân tộc chân chính là xây dựng thành công và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, coi đó là lợi ích cao nhất, đồng thời thực hiện nghĩa vụ quốc tế theo khả năng thực tiễn của mình.

Đến Đại hội XI (tháng 1-2011), Đảng ta khẳng định một lần nữa: “Nhiệm vụ của công tác đối ngoại là giữ vững môi trường hòa bình, thuận lợi cho đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ; nâng cao vị thế của đất nước; góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới.

Nâng cao hiệu quả hoạt động đối ngoại, tiếp tục đưa các mối quan hệ quốc tế vào chiều sâu trên cơ sở giữ vững độc lập, tự chủ, phát huy tối đa nội lực, giữ gìn và phát huy bản sắc dân tộc; chủ động ngăn ngừa và giảm thiểu tác động tiêu cực của quá trình hội nhập quốc tế”(1).

Sau hơn 25 năm thực hiện đường lối đổi mới đất nước, chúng ta đã thoát khỏi thế bị bao vây, cấm vận; mở rộng quan hệ đối ngoại theo hướng đa phương hóa, đa dạng hóa và giữ vững độc lập, chủ quyền quốc gia; bình thường hóa quan hệ và lần đầu tiên có quan hệ ngoại giao ổn định với tất cả các “nước lớn”, gia nhập Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN). Đến nay, quan hệ đối ngoại được mở rộng và ngày càng đi vào chiều sâu, góp phần tạo ra thế và lực mới cho đất nước. Nước ta đã phát triển quan hệ vững chắc với các nước láng giềng và nâng cấp quan hệ với nhiều nước là đối tác quan trọng; tham gia tích cực và có trách nhiệm tại các diễn đàn khu vực và quốc tế, như đảm nhiệm tốt vai trò Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2008-2009, có những đóng góp quan trọng vào việc xây dựng Cộng đồng ASEAN và Hiến chương ASEAN, đảm nhiệm thành công vai trò Chủ tịch ASEAN 2010, Chủ tịch Hội đồng Liên nghị viện các quốc gia Đông Nam Á (AIPA) nhiệm kỳ 2009-2010. Các kênh đối ngoại Đảng, ngoại giao Nhà nước và đối ngoại nhân dân gắn bó chặt chẽ, phát triển và mở rộng. Công tác về người Việt Nam ở nước ngoài có bước tiến quan trọng, đạt được kết quả tích cực về nhiều mặt. Chúng ta đã thực hiện đầy đủ các cam kết quốc tế; đối thoại cởi mở, thẳng thắn về vấn đề tự do, dân chủ và nhân quyền. Trong lĩnh vực kinh tế, nước ta đã trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), ký kết hiệp định thương mại tự do song phương và đa phương với một số đối tác quan trọng; mở rộng và tăng cường quan hệ hợp tác với nhiều đối tác, góp phần to lớn vào việc tạo dựng và mở rộng thị trường hàng hóa, dịch vụ và đầu tư vào Việt Nam; thu hút trực tiếp đầu tư của nước ngoài, tranh thủ vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) và các nguồn tài trợ quốc tế khác với khối lượng lớn và có hiệu quả.

3. Một số ý kiến về việc sửa đổi, bổ sung Điều 14 trong Hiến pháp hiện hành

Nếu cơ sở để hình thành Hiến pháp năm 1992 và việc sửa đổi, bổ sung lần thứ nhất (năm 2001) xuất phát từ chủ trương, đường lối được thông qua tại các kỳ đại hội VI, VII của Đảng và Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội năm 1991, cùng với bối cảnh tình hình thế giới khi đó, thì cơ sở của việc sửa đổi, bổ sung lần này chủ yếu phải xuất phát từ chủ trương, đường lối của Đại hội XI của Đảng, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011), kế thừa những nhân tố có giá trị vững bền của công tác đối ngoại trong hiến pháp hiện hành và tình hình thế giới hiện nay.

Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011) chỉ rõ, “đặc điểm nổi bật trong giai đoạn hiện nay của thời đại là các nước với chế độ xã hội và trình độ phát triển khác nhau cùng tồn tại, vừa hợp tác, vừa đấu tranh, cạnh tranh gay gắt vì lợi ích quốc gia, dân tộc. Cuộc đấu tranh của nhân dân các nước vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ, phát triển và tiến bộ xã hội dù gặp nhiều khó khăn, thách thức, nhưng sẽ có bước tiến mới. Theo quy luật tiến hóa của lịch sử, loài người nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội”(2).

Công tác đối ngoại trong Hiến pháp hiện hành được liên kết bởi 3 phân khúc: Một là, thực hiện chính sách hòa bình, hữu nghị, mở rộng giao lưu và hợp tác với tất cả các nước trên thế giới, không phân biệt chế độ chính trị và xã hội khác nhau, trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau, bình đẳng và cùng có lợi; hai là, tăng cường tình đoàn kết hữu nghị và quan hệ hợp tác với các nước xã hội chủ nghĩa và các nước láng giềng; ba là, tích cực ủng hộ và góp phần vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Với những thành tựu đã đạt được kể từ khi thực hiện Hiến pháp năm 1992 đến nay, cùng với xu thế toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế ngày càng sâu, rộng, công tác đối ngoại cần được tiếp tục đẩy mạnh và các mối quan hệ cần được mở rộng hơn nữa, đi vào chiều sâu, tuy ở những mức độ khác nhau. Một điểm nữa là, do có những đóng góp có hiệu quả, được ghi nhận đối với khu vực và thế giới, nên vị thế của nước ta trên trường quốc tế được công nhận và ngày càng được nâng cao, vì thế, cần khẳng định và nhấn mạnh vai trò Việt Nam “là bạn, là đối tác tin cậy và là thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế” như đã ghi trong Văn kiện Đại hội XI của Đảng.

Từ những phân tích trên, ý kiến đóng góp của chúng tôi là, Điều 14 Hiến pháp hiện hành cần giữ nội dung có tính nguyên tắc “bất di, bất dịch” là không phân biệt chế độ chính trị và xã hội khác nhau, trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau, bình đẳng và cùng có lợi, nhưng cần được bổ sung, và có thể diễn đạt đầy đủ như sau: “Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ, không phân biệt chế độ chính trị và xã hội khác nhau, trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau, bình đẳng và các bên cùng có lợi, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế theo chiều sâu; nâng cao vị thế của Việt Nam trong cộng đồng quốc tế; vì lợi ích quốc gia, dân tộc, vì một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa giàu mạnh; Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy và là thành viên có trách nhiệm với cộng đồng quốc tế, góp phần vào sự nghiệp hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên toàn thế giới”./.  


-----------------------------------------------------

(1) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011,  tr. 236

(2) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2011, tr. 69