Liệu chính sách đối ngoại của Nga có thay đổi?
Nhìn lại chính sách đối ngoại Nga dưới thời Tổng thống D.Medvedev
Ngày 7-5-2008, ông D. Medvedev bắt đầu nhiệm kỳ tổng thống với rất nhiều thuận lợi từ di sản của chính quyền Tổng thống V. Putin. Thuận lợi lớn nhất, xét dưới góc độ nội trị, chính là kinh tế Nga tăng trưởng liên tục trong suốt hai nhiệm kỳ (8 năm) của ông V. Putin. Xét dưới góc độ đối ngoại, chính sách vừa cứng rắn, vừa có tính thực dụng cao của chính quyền Putin đã nâng vị thế nước Nga lên một tầm cao mới. Cựu Thủ tướng Anh T. Blair đã từng nhận xét: “Nước Nga dưới thời Putin đã mạnh lên rất nhiều, khiến thế giới phải tính đến họ trong mọi vấn đề, dù là vấn đề nhỏ nhất”(1)). Tuy nhiên, để có được vị thế ngày càng quan trọng trên thế giới, mâu thuẫn giữa Nga với các nước phương Tây cũng gia tăng.
Khi nhậm chức, Tổng thống D. Medvedev tuyên bố tiếp tục thực hiện đường lối đối ngoại “tự chủ và có định hướng ưu tiên phát triển quan hệ với các láng giềng gần” và “Định hướng cơ bản của chính sách đối ngoại (thông qua năm 2000) vẫn là những nguyên tắc chỉ đạo cho hoạt động đối ngoại của LB Nga” (nội dung cơ bản của định hướng này là nguyên tắc “thực dụng, đa phương, thúc đẩy lợi ích quốc gia nhưng không gây đối đầu”). Tuy nhiên, tình hình đã có những biến chuyển mang tính đột biến. Ngay sau lễ nhậm chức, chính quyền của ông D. Medvedev lập tức phải đối mặt với một tình thế nan giải ở Nam Ossetia (tháng 7, 8-2008) và đặc biệt là cuộc khủng hoảng tài chính - kinh tế toàn cầu bắt đầu bùng phát (tháng 9-2008). Những khó khăn kế tiếp đến từ việc tăng trưởng kinh tế đạt được chủ yếu do giá nhiên liệu thế giới tăng cao, nền kinh tế ngày càng trở nên thiếu cân đối (dầu lửa và khí đốt chiếm tới 2/3 lượng hàng xuất khẩu) cũng như khoảng cách giàu nghèo tăng vọt(2). Tuy nhiên, chính những khó khăn này lại là cơ sở để tạo ra sự khác biệt trong chính sách đối ngoại của chính quyền Tổng thông D.Medvedev so với 8 năm trước đó. Tháng 7-2008, Tổng thống D. Medvedev công bố bản Định hướng chính sách đối ngoại mới mà nội dung của nó dựa trên luận điểm “nước Nga giờ đây đã vươn dậy”. Dường như những khó khăn nảy sinh lại được chính quyền của ông D. Medvedev nhìn nhận như những cơ hội để nâng tầm vóc nước Nga. Những điều chỉnh trong bản định hướng mới này đã được thực tế sau đó chứng minh là đúng đắn.
Trong nhiệm kỳ 4 năm của mình, Tổng thống D. Medvedev đã để lại dấu ấn qua một số thành công sau:
Thành công đầu tiên chính là việc cải thiện quan hệ với Mỹ, mặc dù quan hệ hai nước từng rơi vào tình trạng căng thẳng từ thời tổng thống tiền nhiệm và từ cuộc chiến tại Nam Ossetia (tháng 8-2008). Việc Tổng thống B. Obama tuyên bố dừng triển khai kế hoạch lá chắn tên lửa ở châu Âu (tháng 9-2009), kế hoạch mà nước Nga luôn phản đối quyết liệt, đã giúp cho Hiệp ước cắt giảm vũ khí tấn công chiến lược mới (START) được ký kết (ngày 8-4-2010), tạo cơ sở tin cậy lẫn nhau giữa hai cường quốc quân sự hàng đầu thế giới. Sau thỏa thuận START mới, chuyến thăm nước Mỹ của Tổng thống D.Medvedev (ngày 22 đến 24-6-2010) cũng đã đem đến cho nước Mỹ ít nhất là hợp đồng trị giá gần 4 tỉ USD, tạo ra 44.000 việc làm cho người dân Mỹ trong bối cảnh khủng hoảng. Quan hệ Nga - Mỹ nồng ấm trở lại cũng khiến quan hệ của Nga với EU được cải thiện. Sáng kiến về một hiệp định an ninh mới ngang nhau và không tách rời ở châu Âu của Nga đã mở ra một giai đoạn đối thoại mới bình đẳng giữa Nga và EU.
Thành công trên đã giúp nước Nga kết thúc 18 năm đàm phán và trở thành thành viên thứ 154 của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) vào tháng 12-2011. Đây có thể được coi là một bước ngoặt trong chính sách đối ngoại của Tổng thống D. Medvedev, bởi trước đó, chính quyền của Tổng thống V.Putin không thực sự mặn mà với việc gia nhập WTO. Liệu sự thay đổi này có đem đến những cơ hội mới cho nước Nga như mong đợi không còn phải chờ thời gian trả lời, nhưng rõ ràng với tư cách thành viên WTO, các doanh nghiệp Nga sẽ có nhiều sự lựa chọn hơn, và chí ít là, nước Nga sẽ bình đẳng hơn với các thành viên khác của G 20(3).
Những thành công trên cộng với đà tăng trưởng kinh tế 4%/năm được duy trì trong bối cảnh suy thoái kinh tế toàn cầu đã giúp nước Nga tự tin hơn và có những quyết định thể hiện vai trò của một cường quốc thực sự trên trường quốc tế. Tiêu biểu trong số đó là chính sách bảo vệ quyền tự quyết của Syria trước sức ép của Mỹ và EU. Nga đã sử dụng quyền phủ quyết của mình tại Hội đồng Bảo an để bác bỏ một nghị quyết mà có tới 13 phiếu ủng hộ(4). Hơn thế, ngoài khuôn khổ Liên hợp quốc, những hoạt động tích cực của Nga tại các diễn đàn đa phương như G20, APEC v.v.. cho thấy, dưới thời Tổng thống D.Medvedev, nước Nga không chỉ đơn thuần dựa vào lợi thế dầu lửa để khẳng định vị thế mới.
Chính quyền của Tổng thống Medvedev cũng đạt được những bước tiến mới trong việc củng cố tính gắn kết Cộng đồng các quốc gia độc lập (SNG). Bắt đầu từ ngày 1-7-2011, Liên minh Thuế quan giữa Nga, Belarus và Kazakhstan đi vào hoạt động (Hiệp định được ký vào tháng 1-2010). Một hiệp định thương mại tự do giữa các thành viên SNG cũng đã được ký vào tháng 11-2011 và sẽ có hiệu lực từ năm 2012. Thành công này giúp làm tan dần những nghi kỵ còn giữa Nga với các thành viên SNG. Trong Thông điệp liên bang ngày 23-12-2011, khi đánh giá về thành công trong hoạt động đối ngoại, Tổng thống D. Medvedev đã không nhắc tới cuộc chiến ở Nam Ossetia hồi tháng 8-2008. Có thể nói, đây là một trong những thành công rất quan trọng của chính quyền Medvedev. Phản ứng có tính chấp nhận “sự đã rồi” của các nước phương Tây cho thấy cách ứng xử hợp lý “vừa cứng, vừa mềm” của chính quyền Tổng thống D. Medvedev.
Cùng với những thành công như vậy, hoạt động đối ngoại của chính quyền D. Medvedev cũng không tránh khỏi những hạn chế:
Một trong những hạn chế lớn nhất được thể hiện trong chính sách châu Á - Thái Bình Dương. Trong “Định hướng đối ngoại” năm 2008, Tổng thống D. Medvedev đã nhấn mạnh đến tầm quan trọng của khu vực này và sự cần thiết phải phát huy vai trò tại đây thông qua các cơ chế Tổ chức Hợp tác Thượng Hải (SCO) hay Diễn đàn Hợp tác kinh tế châu Á- Thái Bình Dương (APEC). Tuy nhiên, trong suốt 4 năm qua, quan hệ giữa Nga với khu vực, trước hết với hai nước trong nhóm BRIC là Trung Quốc và Ấn Độ, hầu như không có tiến triển đáng kể nào. Thí dụ điển hình cho tình trạng này là quan hệ thương mại giữa Nga với châu Á chỉ dừng ở mức xấp xỉ 100 tỉ USD (tổng xuất nhập khẩu của Nga năm 2010 là 747,1 tỉ USD), trong đó thương mại với Trung Quốc chiếm tới 36% tổng số xuất nhập khẩu của Nga vào châu Á(5). Điều này chỉ có thể lý giải rằng, đó là do chính quyền của ông D. Medvedev đã ưu tiên hàng đầu trong quan hệ với phương Tây, trước hết là cải thiện quan hệ với Mỹ và việc gia nhập WTO.
Quan hệ Nga - phương Tây, mặc dù có một số động thái tích cực trong thời gian qua, nhưng vẫn chứa đựng rất nhiều mâu thuẫn và chưa thể đi theo chiều hướng ổn định. Từ đầu năm 2012, những diễn biến tại Syria và Iran khiến quan hệ giữa Nga với Mỹ và EU dần trở nên căng thẳng.
Những thay đổi trong Cộng đồng SNG thời gian vừa qua mới chỉ mang tính chất khởi động, bởi lẽ, hầu hết các hiệp định được ký kết vẫn còn nằm trên bàn. Cũng giống như trong quan hệ với các nước châu Á, những khác biệt về trình độ phát triển hay khoảng cách địa lý vẫn là những rào cản mà chính quyền của Tổng thống Medvedev, cũng như các chính quyền trước đó, chưa khắc phục được để có thể thúc đẩy quan hệ với các nước SNG lên một tầm cao mới.
Nước Nga sẽ thay đổi ra sao khi tân tổng thống nhậm chức?
Trước thềm bầu cử, phần đông cử tri Nga đều thể hiện sự ủng hộ đối với ông V.Putin bởi họ cho rằng chỉ có ông mới đủ khả năng củng cố, duy trì được những thành công trong 12 năm qua. Tuy nhiên, người dân Nga cũng rất mong đợi những thay đổi từ chính ông V. Putin, bởi cũng chính trong khoảng thời gian điều hành của bộ đôi Putin - Medvedev đã bộc lộ nhiều hạn chế, đặc biệt là trong việc giải quyết những vấn đề xã hội, như chênh lệch giàu nghèo và tham nhũng. Trong chiến dịch tranh cử, ông V.Putin đã đưa ra một chương trình 8 điểm bao gồm các định hướng, như hiện đại hóa nền kinh tế, chống đói nghèo và tham nhũng, tiếp tục cải cách chính trị, củng cố thống nhất dân tộc và một chính sách đối ngoại độc lập(6). Đây là một chương trình đầy tham vọng bởi trong bối cảnh khủng hoảng tài chính - kinh tế và những biến động chính trị trên thế giới như hiện nay, việc thực hiện được những cam kết này hoàn toàn không dễ dàng. Căn cứ vào những mục tiêu mà tân tổng thống Nga hé mở cùng với những di sản của giai đoạn trước, dự báo, có nhiều khả năng nước Nga sẽ có điều chỉnh chính sách đối ngoại theo những hướng sau:
Trước hết, chính quyền mới sẽ phải giải quyết những vấn đề nảy sinh sau khi gia nhập WTO, như xác định vai trò của nhà nước, tạo điều kiện, điều chỉnh để các doanh nghiệp tư nhân Nga, vốn dĩ có khả năng cạnh tranh không cao, tiếp cận được các thị trường mới. Tuy nhiên, chính quyền của tổng thống mới sẽ khó có những điều chỉnh lớn một cách nhanh chóng bởi muốn tái cơ cấu một nền kinh tế (thiên về xuất khẩu nguyên, nhiên liệu thô) đòi hỏi phải có thời gian. Ngay trong năm 2011, dưới tác động của khủng hoảng kinh tế toàn cầu, và đặc biệt là cuộc khủng hoảng nợ công trong khu vực đồng ơ-rô, đà tăng trưởng của Nga bắt đầu có dấu hiệu đi xuống (theo dự báo của hãng xếp hạng tín dụng Standard and Poors, năm 2012, tăng trưởng của kinh tế Nga sẽ chỉ còn khoảng 3,5% so với 4,3% năm 2011)(7). Hơn nữa, trong thời gian đảm nhiệm chức vụ thủ tướng, ông V.Putin cũng nhận thấy đã đến lúc phải có những cải cách sâu rộng vừa để thích nghi với hoàn cảnh mới vừa nhằm khắc phục những bất cập của mô hình kinh tế thiếu cân đối, chủ yếu chỉ dựa vào giá nhiên liệu. Chính vì thế, trong nhiệm kỳ này, dự đoán, ông V. Putin sẽ có một chính sách thực dụng và mềm dẻo hơn trong quan hệ với các nước phương Tây; quan hệ Nga - Mỹ sẽ ít có đột biến theo cả hai chiều tích cực và tiêu cực.
Tiếp tục củng cố SNG bằng cách bắt đầu triển khai các hiệp định đã ký sẽ là một trong những ưu tiên hàng đầu của tân tổng thống. Trong nhiệm kỳ này, ông V. Putin sẽ phải có những điều chỉnh theo hướng mềm dẻo hơn trong quan hệ với các thành viên để khu vực tự do thương mại thực sự có hiệu quả. Chính sách được thực hiện dưới thời chính quyền D. Medvedev trong quan hệ với SNG đã khắc phục được phần nào những mâu thuẫn nội bộ cộng đồng. Một thực tế là còn quá nhiều những khác biệt giữa các thành viên SNG. Sự chênh lệch về trình độ phát triển giữa các nước này sẽ có dịp bộc lộ và sẽ là động lực thúc đẩy những chính sách bảo hộ khi khu vực thương mại tự do đi vào hoạt động. Mặt khác, những bất đồng như giữa Nga với Ukraine về khí đốt hay giữa Nga với Gru-di-a về các vùng đất tự trị vẫn luôn âm ỉ, chờ dịp bùng phát, nếu không được giải quyết triệt để, và luôn bị các thế lực bên ngoài SNG lợi dụng để can thiệp. Dung hòa được những bất cập do tính đa dạng giữa các thành viên của SNG là bài toán hóc búa trong không gian hậu Xô viết. Rõ ràng, những khó khăn, thách thức trên khó có thể khắc phục được ngay trong nhiệm kỳ của chính quyền của Tổng thống V. Putin. Sự mềm dẻo, thậm chí là nhân nhượng của bộ đôi Putin - Medvedev trong quan hệ với các nước SNG đến mức độ nào vẫn là một ẩn số.
Một hướng điều chỉnh lớn được trông đợi ở chính quyền mới là trong quan hệ với khu vực châu Á. Trong chương trình tranh cử, ông V. Putin không ít lần khẳng định sự cần thiết phải tăng cường hơn nữa quan hệ với các nước châu Á. Dự án liên minh Nga - Ấn Độ - Trung Quốc sẽ không tái hiện như 8 năm về trước nhưng chính quyền mới của ông V.Putin sẽ đẩy mạnh việc mở rộng Liên minh kinh tế Á - Âu. Trong thời điểm hiện tại, quan hệ chặt chẽ hơn nữa với Trung Quốc rõ ràng đem đến cho nước Nga nhiều mặt thuận lợi không chỉ về kinh tế, chính trị mà còn cả về an ninh. Thúc đẩy quan hệ với ASEAN cũng sẽ là một trong những hướng điều chỉnh trong tổng thể chính sách châu Á - Thái Bình Dương của chính quyền Putin, bởi ông V. Putin cho rằng, chính các nước châu Á sẽ giúp nước Nga đạt được mục tiêu thịnh vượng vững chắc(8).
Chính quyền mới cũng sẽ tiếp tục chính sách tăng cường can dự vào Trung Đông, châu Phi và Mỹ Latin mà Tổng thống D. Medvedev đã thực hiện vào giai đoạn cuối nhiệm kỳ của mình. Đơn giản bởi đây là đòn bẩy để nền kinh tế số 6 thế giới khẳng định vai trò của mình. Hơn thế, nhiều dự báo cho rằng, trong năm 2012 kinh tế Nga sẽ bắt đầu chựng lại. Các đối tác này sẽ giúp Nga duy trì được sự ổn định, khắc phục những thiệt hại có thể nảy sinh trong quan hệ với phương Tây do chính việc tăng cường can dự vào các khu vực này.
Trên thực tế, nước Nga luôn chứa đựng rất nhiều ẩn số từ sau khi Liên Xô tan rã đến nay. Mọi dự báo vẫn chỉ là dự báo, tất cả vẫn còn ở phía trước và phụ thuộc rất nhiều vào quan điểm và cách điều hành của chính quyền của Tổng thống V. Putin. Tuy nhiên, có một điều có thể khẳng định là, chính quyền mới sẽ tiếp tục duy trì những đường hướng đối ngoại của 12 năm qua. Những khả năng điều chỉnh của nước Nga được nêu ra trên đây chỉ là những thay đổi tất yếu nhằm thích ứng với điều kiện hoàn cảnh mới mà thôi. Xét tổng thể, chính sách đối ngoại của nước Nga thời Putin “mới” sẽ thay đổi, nhưng không nhiều./.
--------------------------------------------------------
(2) Viện thông tin Khoa học xã hội: Nước Nga sau Putin: sự gia tăng các vấn đề, Tài liệu phục vụ nghiên cứu, số: TN 2009 - 28& 29
(3) Anders Aslund: Why doesn’t Russia joint the WTO?, The Whashington Quarterly, April 2010, p. 49-63
(4) Ngày 5-2-2012, Nga và Trung Quốc bỏ phiếu phủ quyết nghị quyết lên án chính quyền Syria của Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc
(7) http://www.mpi.gov.vn/portal/page/portal/bkhdt, ngày 9-3-2012
"Thanh niên là đội dự bị, xung kích tin cậy của Đảng"  (23/04/2012)
Cử tri Pháp chia sẻ sau bầu cử tổng thống vòng một  (22/04/2012)
Hà Nội: Chỉ số giá giảm lần đầu tiên sau hai năm  (22/04/2012)
Chủ tịch nước thăm và làm việc tại tỉnh Ninh Thuận  (22/04/2012)
BIDV nhắm đích thành 1 tập đoàn tài chính đa năng  (22/04/2012)
- Chủ nghĩa thực dân số trong thời đại số và những vấn đề đặt ra
- Phương hướng, giải pháp nâng cao chất lượng công tác dân vận của Quân đội nhân dân Việt Nam, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn mới
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển đội ngũ nhà giáo và sự vận dụng của Đảng trong giai đoạn hiện nay
- Ngành y tế với công tác chăm sóc, bảo vệ và phát huy vai trò người cao tuổi trong giai đoạn hiện nay
- Quan điểm, chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về công tác tuyên truyền, vận động quần chúng nhân dân - Một số vấn đề đặt ra đối với việc vận dụng, phát triển trong kỷ nguyên mới của đất nước
-
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Cuộc chiến đấu bảo vệ Thành cổ Quảng Trị năm 1972 - khát vọng độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - Bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX -
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Chiến thắng Điện Biên Phủ - Bài học lịch sử và ý nghĩa đối với sự nghiệp đổi mới hiện nay -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Đổi mới tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị “tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả” theo tinh thần định hướng của Đồng chí GS, TS, Tổng Bí thư Tô Lâm