Bảo đảm quyền bình đẳng giới ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay

Nguyễn Hữu Minh Viện trưởng Viện Nghiên cứu Gia đình và Giới, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam
22:56, ngày 04-08-2014

TCCSĐT - Bảo đảm bình đẳng giới chính là nền tảng cơ bản thực hiện công bằng quyền lợi giữa phụ nữ và nam giới, thực hiện các yêu cầu cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc về quyền con người.

Những thành tựu cơ bản về bình đẳng giới

Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước Việt Nam thực hiện nhiều bước đột phá về nhận thức và hành động, từ khía cạnh luật pháp, chính sách đến thực tiễn và đạt được nhiều thành tựu quan trọng về bình đẳng giới. Việt Nam được đánh giá là một trong những quốc gia xóa bỏ khoảng cách giới nhanh nhất trong vòng 20 năm qua. Điểm nổi bật trong việc bảo đảm quyền lợi về giới ở Việt Nam là việc hoàn thiện khung luật pháp, chính sách về bình đẳng giới. Ngay từ năm 1946, trong Hiến pháp đầu tiên của chế độ mới, mục tiêu bình đẳng giới đã được ghi nhận. Tiếp đó, trong các lần sửa đổi, bổ sung Hiến pháp, việc bảo đảm bình đẳng giới đều được quy định rõ ràng. Hiến pháp năm 2013 quy định “công dân nam, nữ bình đẳng về mọi mặt. Nhà nước có chính sách bảo đảm quyền và cơ hội bình đẳng giới” và “nghiêm cấm phân biệt đối xử về giới” (Khoản 1 và Khoản 3 Điều 26).

Bên cạnh đó, Luật Bình đẳng giới (năm 2006), Luật Phòng, chống bạo lực gia đình (năm 2007) được triển khai thực hiện. Nhiều bộ luật khác có liên quan mật thiết đến quyền lợi của nam giới và nữ giới như Luật Phòng, chống mua bán người (năm 2012), Bộ luật Lao động (năm 2012), Luật Việc làm (năm 2013),… đều được lồng ghép vấn đề giới. Nhiều nghị định và văn bản dưới luật được ban hành để cụ thể hóa các nội dung của Luật Bình đẳng giới và Luật Phòng, chống bạo lực gia đình, như: Nghị định số 70/2008/NĐ-CP, ngày 04-6-2008, quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Bình đẳng giới; Nghị định số 48/2009/NĐ-CP, ngày 19-5-2009, quy định các biện pháp bảo đảm bình đẳng giới; Nghị định số 55/2009/NĐ-CP, ngày 10-6-2009, quy định xử phạt vi phạm hành chính về bình đẳng giới. Năm 2009, Chính phủ ban hành Chương trình hành động của Chính phủ giai đoạn đến năm 2020 thực hiện Nghị quyết số 11-NQ/TW, ngày 27-4-2007, của Bộ Chính trị về công tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Ngày 24-12-2010, Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2011 - 2020 với 7 mục tiêu và 22 chỉ tiêu cụ thể trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế, lao động - việc làm, giáo dục và đào tạo, y tế, văn hóa, thông tin, gia đình và nâng cao năng lực quản lý nhà nước về bình đẳng giới. Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới là công cụ quan trọng đưa Luật Bình đẳng giới vào cuộc sống và thể hiện cam kết cao của Việt Nam trong việc thực hiện Công ước quốc tế xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử đối với phụ nữ, Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ và Cương lĩnh hành động Bắc Kinh năm 1995. Tiếp đó, ngày 22-7-2011, Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2011 - 2015, trong đó xác định 5 dự án thành phần của Chương trình gồm: nâng cao nhận thức, thay đổi hành vi về bình đẳng giới; nâng cao năng lực và hiệu quả quản lý nhà nước về bình đẳng giới; nâng cao năng lực cho đội ngũ nữ đại biểu Quốc hội, nữ đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp, nữ cán bộ quản lý, nữ lãnh đạo các cấp; nữ ứng cử đại biểu Quốc hội, nữ ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2016 - 2020, nữ cán bộ thuộc diện quy hoạch; hỗ trợ thực hiện bình đẳng giới trong những lĩnh vực, ngành, vùng, địa phương có bất bình đẳng giới hoặc có nguy cơ cao bất bình đẳng giới; hỗ trợ xây dựng, phát triển dịch vụ tư vấn, hỗ trợ về bình đẳng giới.

Cùng với việc hoàn thiện hệ thống pháp luật, chính sách, bộ máy quốc gia về bình đẳng giới cũng được củng cố. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội được giao nhiệm vụ là cơ quan chủ trì giúp Chính phủ thực hiện chức năng quản lý nhà nước về bình đẳng giới trên phạm vi toàn quốc. Để thực hiện chức năng này, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội thành lập Vụ Bình đẳng giới. Các bộ, ngành khác phân công đầu mối tham mưu công tác quản lý nhà nước về bình đẳng giới. Ở địa phương, 13/63 tỉnh, thành phố thành lập phòng bình đẳng giới và các tỉnh, thành còn lại bố trí 1 cán bộ đầu mối làm công tác bình đẳng giới. Đối với cấp huyện và cấp xã, hầu hết cán bộ phòng lao động - thương binh và xã hội và cán bộ văn hóa xã hội được phân công làm kiêm nhiệm công tác này. Ngoài ra, Ủy ban quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam - một tổ chức phối hợp liên ngành thành lập từ năm 1993, vẫn tiếp tục được kiện toàn và nâng cao chất lượng, gồm các thành viên là đại diện của nhiều bộ, ngành và cơ quan trung ương, giúp phối hợp hoạt động có hiệu quả từ các ban, ngành vì mục tiêu bình đẳng giới.

Bên cạnh việc hoàn thiện pháp luật, chính sách và bộ máy, Việt Nam đạt được những thành quả hết sức cơ bản về bình đẳng giới. Về chính trị, tỷ lệ phụ nữ tham gia vào các vị trí quản lý, lãnh đạo tăng lên trong giai đoạn vừa qua. Đặc biệt, hiện có 2 phụ nữ được bầu vào Bộ Chính trị và 1 phụ nữ được bầu vào Ban Bí thư, đây là con số cao nhất từ tất cả các kỳ Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam. Ở cấp trung ương, có 2 bộ trưởng, 15 thứ trưởng và tương đương, 4 phó tổng cục trưởng... là nữ. Trong lĩnh vực kinh tế, lao động, việc làm, lao động nữ hiện chiếm khoảng 48,5% trong tổng số lao động. Tỷ lệ tham gia lực lượng lao động của nam là 82,5% so với nữ là 73,5%. Số lao động nữ được tạo việc làm trong năm 2013 chiếm 48%, đạt chỉ tiêu kế hoạch Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới. Trong năm 2013, tuyển mới dạy nghề đạt trên 1,732 triệu người trong đó nữ chiếm 42%, đạt 91,15% kế hoạch (tăng 14% so với thực hiện năm 2012).

Chính sách tín dụng ưu đãi đối với hộ nghèo được Đảng và Nhà nước đặc biệt quan tâm, trong đó, những hộ nghèo do phụ nữ làm chủ hộ cũng được hỗ trợ thiết thực qua nhiều kênh (từ Ngân hàng Chính sách xã hội, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, các chương trình vay vốn do nước ngoài tài trợ, quỹ giúp phụ nữ nghèo xóa đói giảm nghèo do ngân sách nhà nước hỗ trợ kinh phí...). Nhiều địa phương đạt tỷ lệ từ 80% trở lên số hộ nghèo do phụ nữ làm chủ hộ đủ điều kiện và có nhu cầu được vay vốn. Trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo, năm 2013, tỷ lệ biết chữ của phụ nữ ở cả khu vực nông thôn và thành thị trong độ tuổi từ 15 - 40 không khác biệt nhiều so với nam giới. Ở nông thôn nữ là 94,8% so với nam là 96,4%; ở thành thị, nữ là 98,7% so với nam là 98,6%. Đối với vấn đề tiếp cận và thụ hưởng các dịch vụ chăm sóc sức khỏe, một trong những nhiệm vụ quan trọng là hạn chế sự tăng lên của tỷ số giới tính khi sinh. Với những nỗ lực của ngành y tế và toàn xã hội, ước tính tỷ số giới tính khi sinh năm 2013 là 112,6 trẻ sơ sinh trai/100 trẻ sơ sinh gái, có khả năng đạt được chỉ tiêu đề ra vào năm 2015 là 113 trẻ sơ sinh trai/100 trẻ sơ sinh gái. Số tử vong mẹ do tai biến sản khoa cũng giảm so với những năm trước. Theo ước tính, tỷ số tử vong mẹ liên quan đến thai sản năm 2012 là 64/100.000 trẻ đẻ sống, có khả năng đạt được mục tiêu của Chiến lược cho năm 2015 là 58,3/100.000 trẻ đẻ sống.

Trong đời sống gia đình, việc chia sẻ công việc giữa vợ và chồng tăng đáng kể, đồng thời việc giảm dần gánh nặng của các công việc không tên cho người phụ nữ được quan tâm hơn. Kể từ khi Luật Phòng, chống bạo lực gia đình được ban hành và triển khai trong cuộc sống, nhận thức của cán bộ và nhân dân về vấn đề này được tăng cường. Các hành vi bạo lực của chồng đối với vợ bị cộng đồng xã hội và người dân lên án và đấu tranh tích cực hơn. Bạo lực gia đình của chồng đối với vợ có xu hướng giảm. Tỷ lệ nạn nhân và người gây bạo lực gia đình được tư vấn tăng lên. Các biện pháp phòng, chống bạo lực trên cơ sở giới ngoài phạm vi gia đình được triển khai một cách tích cực. Việc tổ chức tiếp nhận và hỗ trợ nạn nhân phụ nữ và trẻ em gái bị mua bán trở về hòa nhập cộng đồng được quan tâm một cách cụ thể. Giai đoạn 2011 - 2013 có trên 50% số nạn nhân được tiếp nhận các dịch vụ hỗ trợ như trợ cấp khó khăn, học nghề, tạo việc làm, khám chữa bệnh và trợ giúp pháp lý, tạo điều kiện cho nạn nhân vay vốn với lãi suất thấp để ổn định cuộc sống và hòa nhập cộng đồng.

Có thể nói, việc bảo đảm quyền bình đẳng giới đạt được nhiều thành tựu lớn. Hệ thống chính sách, pháp luật về bình đẳng giới ngày càng hoàn thiện. Cấp ủy, chính quyền các cấp có chuyển biến tích cực trong nhận thức và hành động về thực hiện bình đẳng giới. Quyền bình đẳng giới trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, bảo vệ sức khỏe, đời sống gia đình,… được thực hiện đầy đủ hơn.

Những thách thức cơ bản trong giai đoạn hiện nay

Tuy nhiên, khoảng cách giới còn tồn tại khá lớn trong một số lĩnh vực của cuộc sống. Trước hết là sự tham gia của phụ nữ trong lĩnh vực chính trị còn hạn chế, đặc biệt là ở cấp cơ sở. Tỷ lệ cán bộ nữ làm công tác quản lý, lãnh đạo còn thấp so với các vị trí quản lý, lãnh đạo nói chung và so với sự gia tăng của lực lượng lao động nữ. Tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội chưa đạt chỉ tiêu của Chiến lược quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ đến năm 2010 (phấn đấu đạt từ 33% trở lên) và chỉ tiêu của Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2011 - 2020. Định kiến giới truyền thống về vai trò của phụ nữ, gắn phụ nữ với công việc chăm sóc gia đình và nam giới với việc kiếm tiền giúp gia đình vẫn còn tồn tại. Chính sách, cơ chế công tác cán bộ nữ chưa triển khai đồng bộ, thiếu một lộ trình tạo nguồn cán bộ cụ thể.

Trong lĩnh vực kinh tế, cơ hội của phụ nữ tiếp cận việc làm có thu nhập cao và các nguồn lực kinh tế vẫn còn thấp hơn so với nam giới. Một số chỉ tiêu đặt ra ở Chiến lược quốc gia bình đẳng giới về lao động, đào tạo,… vẫn chưa đạt được. Theo số liệu của Tổng Cục Thống kê, tỷ lệ lao động nữ nông thôn dưới 45 tuổi được đào tạo nghề và chuyên môn kỹ thuật đạt 11,8% năm 2013, bằng gần một nửa so với chỉ tiêu kế hoạch đề ra. Tỷ lệ phụ nữ tham gia vào các công việc dễ bị tổn thương cao hơn nam giới; phụ nữ chiếm tỷ lệ cao hơn trong khu vực phi chính thức của thị trường lao động. Họ kiếm được ít thu nhập hơn và ít được pháp luật về lao động bảo vệ và ít được tiếp cận trực tiếp với sự bảo trợ xã hội.

Về mặt chăm sóc sức khỏe, việc tiếp cận dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản của phụ nữ vùng nông thôn, vùng dân tộc thiểu số còn hạn chế. Tỷ suất tử vong mẹ còn cao so với một số nước trong khu vực. Mức giảm tỷ suất chết mẹ trong 10 năm qua còn chậm, nhất là ở vùng sâu, vùng xa và vùng dân tộc thiểu số. Tỷ lệ nữ có bảo hiểm y tế (tính trong số người khám chữa bệnh) tăng lên qua các năm, tuy nhiên còn thấp hơn nam giới. Theo số liệu điều tra mức sống dân cư năm 2010, khoảng 64,5% số phụ nữ có bảo hiểm y tế, so với 69,4% số nam có bảo hiểm y tế. Nam giới còn ít được tiếp cận thông tin liên quan đến chăm sóc sức khỏe sinh sản, sức khỏe tình dục. Tỷ lệ nam giới thực hiện các biện pháp tránh thai an toàn chưa cao. Định kiến giới, tư tưởng “trọng nam khinh nữ” vẫn còn khá phổ biến. Phụ nữ vẫn được coi là người đảm nhận chính công việc chăm sóc gia đình, nam giới vẫn được kỳ vọng trở thành người thành đạt, bảo đảm kinh tế cho gia đình. Mặc dù phụ nữ tham gia ngày càng nhiều hơn vào các quyết định trong gia đình, song nam giới vẫn là người ra các quyết định chính. Điều này đang tạo ra những rào cản đối với sự lựa chọn các cơ hội phát triển của cả nam và nữ.

Tình trạng bạo lực đối với phụ nữ tồn tại khá nghiêm trọng. Theo Nghiên cứu quốc gia về Bạo lực gia đình đối với phụ nữ ở Việt Nam năm 2010 do Tổng Cục Thống kê cùng các tổ chức quốc tế tại Việt Nam tiến hành, có 58,3% trong số phụ nữ được điều tra cho biết đã trải qua ít nhất một hình thức bạo hành như thể chất, tinh thần, hoặc tình dục, với 27% số phụ nữ trải qua ít nhất một hình thức bạo hành trong vòng 12 tháng trở lại. Nhận thức về pháp luật của cán bộ và người dân về phòng, chống bạo lực gia đình còn hạn chế. Tại không ít địa phương, các cấp chính quyền, cộng đồng coi bạo lực gia đình là chuyện riêng tư của mỗi gia đình. Chế tài thực hiện Luật Phòng, chống bạo lực gia đình chưa mạnh, chưa xử lý nghiêm các hành vi bạo lực gia đình. Một số đơn vị, địa phương chưa quan tâm thúc đẩy công tác chỉ đạo, triển khai về bình đẳng giới, chưa thực sự gắn công tác này với hoạt động quản lý của các cấp, ngành. Cán bộ làm công tác bình đẳng giới ở các bộ, ngành, địa phương (ở cấp huyện) chủ yếu làm việc theo chế độ kiêm nhiệm, do vậy, công tác tham mưu và triển khai các hoạt động còn hạn chế.

Về mặt luật pháp, một số văn bản hướng dẫn, thể chế hóa quy định của pháp luật liên quan đến bình đẳng giới chậm được ban hành. Việc triển khai quy định lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong xây dựng văn bản quy phạm pháp luật và đánh giá việc lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong xây dựng và thẩm định các dự thảo văn bản quy phạm pháp luật đạt kết quả chưa cao. Nguyên nhân chính là do một số cơ quan chủ trì soạn thảo chưa chủ động nghiên cứu thực hiện quy định này ngay từ giai đoạn đầu khi xây dựng chính sách; thiếu nguồn thông tin và cơ sở dữ liệu có tách biệt giới tính; kiến thức và kỹ năng về lồng ghép giới của đội ngũ cán bộ tham gia xây dựng và hoạch định chính sách còn hạn chế.

Nhìn chung, việc bảo đảm quyền bình đẳng giới ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay có tiến bộ vượt bậc so với trước. Phụ nữ và nam giới có sự bình đẳng về thực chất trên các lĩnh vực cuộc sống, tuy nhiên, việc thực hiện quyền bình đẳng giữa nam và nữ còn nhiều hạn chế. Phấn đấu để khắc phục những khoảng cách giới là nhiệm vụ quan trọng nhằm bảo đảm lợi ích của từng giới trong việc thực thi quyền con người ở Việt Nam như lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh, coi vấn đề bình đẳng nam - nữ là “một cuộc cách mạng khá to và khó. Vì trọng trai khinh gái là một thói quen mấy nghìn năm để lại. Vì nó ăn sâu trong đầu óc của mọi người, mọi gia đình, mọi tầng lớp xã hội... Phải cách mạng từng người, từng gia đình, đến toàn dân. Dù to và khó nhưng nhất định thành công”(*)./.

---------------------------------------------------

(*) Hồ Chủ tịch với vấn đề phụ nữ, Nxb. Phụ nữ, Hà Nội, 1962, tr. 23