Văn học Việt Nam 2007 - Một năm phẳng lặng

Nguyễn Văn Quý
13:35, ngày 28-01-2008
Văn học Việt Nam năm 2007 dường như vẫn "phẳng lặng" trước những thành tựu to lớn và toàn diện của đất nước trên mọi lĩnh vực: kinh tế, chính trị, ngoại giao. Thế và lực của Việt Nam như một con tàu đã nạp đủ năng lượng, đang trên đường ray vững chãi băng lên phía trước. Đành rằng sự sáng tạo của văn chương có một lối đi riêng không giống như một doanh nhân hay một nhà khoa học thực chứng nào khác... Chúng ta chỉ có thể tiếp tục chờ đợi và hy vọng...
 

Đã qua một năm thử thách trên "biển lớn" WTO, trở thành Ủy viên không Thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc với số phiếu thuận cao; tốc độ tăng trưởng nền kinh tế đạt trên 8%; nền ngoại giao rộng mở... Việt Nam năm 2007 lấp lánh nhiều điểm sáng. Cũng là một năm thiên tai tàn phá dai dẳng, hết lũ quét sạt núi ở vùng cao phía bắc, đến lũ đè lên lũ ở dải đất đòn gánh miền Trung, lại thêm cái sự cố sập nhịp dẫn cầu Cần Thơ và mới đây nữa là tai nạn thảm khốc xảy ra tại mỏ đá D3, Công trường thủy điện Bản Vẽ (Nghệ An) làm cho lòng người không thể không se thắt. Nỗi lo toan thường nhật khi đồng lương chưa kịp điều chỉnh thì giá cả đã leo thang chóng mặt. Nơi biên giới heo hút mù mây, ngoài hải đảo trập trùng sóng gió, sớm nắng chiều mưa... nhân tình thế thái chẳng phải lúc nào cũng được như ta muốn. Một năm nhiều nụ cười tỏa rạng nhưng cũng không ít những giọt nước mắt u buồn. Trong se lạnh của những ngày cuối đông, giới cầm bút và cả bạn đọc nữa xao xác tưởng nhớ tới các nhà văn quen thuộc đã ra đi trong năm: Võ Quảng, Hữu Mai, Lâm Quý, Phan Cao Toại, Nguyễn Tất Thứ, Kim Lân, Phan Cự Đệ, Cao Xuân Hạo, Trịnh Thanh Sơn, Vũ Cao và Phạm Tiến Duật - nhà thơ hàng đầu của thời chống Mỹ... Một đời người, một đời viết, lăn lóc đào xới đến cạn kiệt tâm sức mà trước khi đi vào cõi thiên thu vẫn còn đau đáu câu hỏi: mình để lại cho đời được cái gì không?

Một chút xa xôi như thế để bắc qua câu chuyện văn chương của năm 2007 này. Một năm, có thể xuất hiện những tác phẩm làm xôn xao dư luận nhưng cũng rất có thể chẳng có gì để nói. Âu cũng là lẽ thường, bởi nghề viết văn "phụ thuộc" vào cái "trời cho" nhiều lắm. "Trời cho" lúc nào, cho bao nhiêu, ít hay nhiều, không ai biết trước.

1 - Năm lễ và hội của Hội Nhà văn Việt Nam

Năm 2007 với Hội Nhà văn Việt Nam là năm lễ và hội. Lễ trọng có việc đón nhận Huân chương Sao Vàng của Đảng và Nhà nước tặng cho đội ngũ các thế hệ nhà văn thuộc Hội Nhà văn Việt Nam đã có công lao to lớn đặc biệt xuất sắc, đóng góp vào sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc. Mười hai nhà văn: Tô Hoài, Nguyễn Xuân Sanh, Vũ Tú Nam, Giang Nam, Nguyễn Khoa Điềm, Hồ Phương, Hữu Thỉnh, Lâm Thị Mỹ Dạ, Lê Văn Thảo, Nguyễn Trí Huân, Y Phương và Trần Đăng Khoa đại diện cho các thế hệ nhà văn Việt Nam nhận huân chương cao quý này do đồng chí Trương Tấn Sang, Ủy viên Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư Trung ương Đảng trao. Một sự kiện trọng đại đối với Hội Nhà văn Việt Nam.

Hội nghị nhà văn ba nước Việt Nam - Lào - Cam-pu-chia tại Hà Nội là một sự kiện đáng ghi nhớ trong đời sống văn nghệ năm 2007. Hội nghị này mang ý nghĩa quan trọng là góp phần tập hợp đội ngũ sáng tác, đánh giá thành tựu văn học chiến tranh cách mạng, phản ánh tình đoàn kết hữu nghị, thúc đẩy và giao lưu hợp tác văn học giữa các nhà văn ba nước Đông Dương. Lần đầu tiên xuất hiện giải thưởng văn học "Sông Mê Công" và 12 nhà văn của 3 nước đã được trao giải thưởng này. Năm nhà văn Việt Nam được nhận giải thưởng "Sông Mê Công" lần thứ nhất là Văn Linh, Trần Công Tấn, Bùi Bình Thi, Văn Lê, Nguyễn Quốc Trung. Tuy nhiên, không phải không có những băn khoăn về giải thưởng. Trước hết là tên giải thưởng - một "thương hiệu văn học và văn hóa" xem chừng chưa ổn lắm. Sông Mê Công đâu phải chỉ của ba nước Đông Dương... thêm nữa, quy chế xét giải thưởng cần phải được chuẩn hóa và công khai rộng rãi để mọi người được biết!

Thiết nghĩ, cũng cần phải nhắc tới hội nghị văn học giữa nhiệm kỳ của Hội Nhà văn Việt Nam tổ chức vào trung tuần tháng 10. Theo báo cáo đánh giá của Ban Chấp hành Hội thì: văn học ta tiếp tục phát triển theo hướng mở rộng về đề tài, chủ đề, đổi mới về cách nhìn và phương pháp sáng tác, đem đến bức tranh đa dạng, phong phú và sôi nổi trong đời sống văn học. Xu hướng trở về với đề tài lịch sử, về hai cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc phát triển mạnh. Đi vào sự nghiệp đổi mới đất nước, vấn đề đạo đức xã hội được các nhà văn đặc biệt quan tâm. Tác động của thị trường ngày càng mạnh trên cả ba phương diện sáng tác, phê bình và quảng bá tác phẩm. Văn học mạng bên cạnh yếu tố tích cực, đáng lo ngại là xu hướng thấp kém về văn hóa và thẩm mỹ. Yếu tố sex trở thành "mốt", cá biệt có trường hợp rơi vào bệnh hoạn...

Thực ra, đánh giá trên không có gì mới và bất cứ nhà văn nào cũng có thể thấy. Cái người ta mong chờ là ở sự hoạt động năng nổ, mang tính sáng tạo, tư duy đổi mới và có hành động tác động thiết thực đến sáng tác của Ban Chấp hành Hội đối với các nhà văn. Nhiều câu hỏi được đặt ra. Tại sao có những nhà văn tỏ ra thờ ơ với tổ chức Hội? Tại sao giải thưởng của Hội Nhà văn chưa đủ "tầm" thuyết phục được đội ngũ? Tại sao chất lượng kết nạp hội viên có trường hợp còn thấp? Tiếng nói của Ban Chấp hành Hội trước những hiện tượng văn học "lệch lạc", "thấp kém về văn hóa và thẩm mỹ" còn yếu ớt mờ nhạt, nếu không muốn nói là luôn né tránh, tại sao? Tại sao ta chưa có những tác phẩm tầm cao sau chiến tranh và về thời kỳ đổi mới?...

Đó là những câu hỏi, trước hết cần phải đặt ra cho Hội Nhà văn, những người trực tiếp tổ chức, xây dựng đội ngũ cầm bút sáng tạo tiêu biểu làm ra những mùa màng văn học cho nước nhà... Cũng là những chuyện "biết rồi, nói mãi, khổ lắm" nhưng nó luôn luôn là sự đòi hỏi, là yêu cầu thiết thực đối với Hội Nhà văn Việt Nam.

2 - Năm văn chương phẳng lặng

Dòng chảy văn học trong năm 2007 có thể rộng mở thêm những lưu vực mới nhưng nhìn chung là phẳng lặng. Năm nay, không có những tác phẩm xuất sắc gây "chấn động" dư luận xã hội như tiểu thuyết "Hồ Quý Ly" "Mẫu thượng ngàn" của lão nhà văn Nguyễn Xuân Khánh hay truyện vừa "Cánh đồng bất tận" của Nguyễn Ngọc Tư mấy năm trước đây. Cũng không có mấy tác phẩm gây tranh cãi nhiều như "Bóng đè" của Đỗ Hoàng Diệu, "Thương lượng với thời gian" của Hữu Thỉnh như năm ngoái, năm kia. Thực ra cũng có đôi quyển tạo ra mấy vòng sóng lăn tăn như tiểu thuyết "Ngồi" của Nguyễn Bình Phương hay tập thơ mỏng "Gửi VB" của Phan Thị Vàng Anh khi được Hội Văn nghệ Hà Nội trao giải trong năm. "Gửi VB" được nhà phê bình Nguyễn Thị Minh Thái "khen hết lời" trong bài viết "Còn sống, còn đau, còn hạnh phúc" (Văn nghệ quân đội số 679) hay như nhà thơ Hoàng Hưng "vừa khen vừa chê" trong "Thơ - văn xuôi của ngày thường", với bài "Gửi VB" (cũng in trên Văn nghệ quân đội số ra tiếp sau đó) đồng thời cũng bị một số người không đánh giá cao như nhà thơ trẻ Lê Thiếu Nhơn. "Gửi VB", theo tôi cũng chỉ là tập thơ đọc được chứ không phải xuất sắc, mới lạ. Nói về thơ, trong cảm nhận của riêng tôi thì các tập "Áo lá sen" của Trương Thị Kim Dung dự giải Lá trầu vàng, "Miền hoa dại" "Bùa lá" của Nguyễn Thị Đạo Tĩnh, "Họa mi năm ngoái" của Trần Kim Hoa dự xét giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam năm 2007 đều khá. Thơ Trương Thị Kim Dung nén - kiệm lời - suy tưởng, thơ Nguyễn Thị Đạo Tĩnh buồn - chiêm nghiệm - thân phận, thơ Trần Kim Hoa đa mang - hoài niệm và mới mẻ. Còn một tập thơ được in trong năm, người đọc cũng sẽ nhận ra những giọt mật vàng óng ánh được chắt lọc qua thời gian. Đó là tập "Mật ong vàng lũng núi" của nhà thơ Bùi Quang Thanh. Trong năm, thơ xuất bản rất nhiều nhưng để chọn được những tập thực sự xuất sắc, theo tôi không dễ. Trên các báo thỉnh thoảng ta vẫn được đọc một số bài thơ hay nhưng ngẫm kỹ lại, phần lớn cũng chỉ thường thường bậc trung.

Sự phẳng lặng của văn học nước ta trong năm qua một phần nữa được phản ánh trong kết quả cuộc thi truyện ngắn và thơ tình của báo Văn nghệ và giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam năm 2007.

Cuộc thi truyện ngắn báo Văn nghệ kéo dài một năm (từ tháng 3-2006 đến tháng 3-2007) với giải nhất thuộc về hai tác giả rất mới là Ngô Phan Lưu và Hồ Thị Ngọc Hoài. Hãy xem nhà văn Dạ Ngân viết: "Ngô Phan Lưu là ai, bạn sẽ thấy Ngô Phan Lưu đặc sắc như thế nào trong chùm truyện Buổi sáng biến mất Cơm chiều, một cách viết kiệm lời đến mức sánh đặc, giản dị đến mức thông thái, nhân bản đến mức kỳ dị. Cô giáo trẻ Hồ Thị Ngọc Hoài trong Thung Lam nhiều day dứt như một người đàn bà vừa đi qua tất cả những yêu thương và cay đắng cõi người...". Từ cuộc thi này,Văn nghệ đã phát hiện ra một số cây bút mới nhưng nếu thực Ngô Phan Lưu tài như Dạ Ngân ca ngợi thì có lẽ ông đã là Giả Bình Ao của nước ta chăng? Nhiều người cho rằng dư âm và sức vang của cuộc thi truyện ngắn báo Văn nghệ vừa qua không lớn! Nó chưa có những truyện ngắn thật hay làm cho người ta phải giật mình để rồi sau đó phải tâm phục khẩu phục kiểu như "Tướng về hưu" của Nguyễn Huy Thiệp, "Bước qua lời nguyền" của Tạ Duy Anh hay "Có một đêm như thế" của Phạm Minh Thư, "Bức thư gửi mẹ Âu Cơ" của Y Ban, "Gió mưa gửi lại" của Thùy Linh trước đây. Một cuộc thi, theo tôi có nền nhưng chưa có đỉnh nên đã thu hẹp sự vang vọng cần có của nó, mặc dù (cũng lại là nhà văn Dạ Ngân) tự tin viết tiếp, đó là: "Một dàn đồng ca tràn đầy hơi thở đời sống, nhiều giọng nhiều bè, khỏe khoắn điêu luyện...".

Cuộc thi thơ tình cũng của báo Văn nghệ càng làm tôi thất vọng. Thời gian mở cuộc thi từ năm 2006 đến 2007. Hàng trăm bài thơ được giới thiệu trên "Văn nghệ Trẻ" và 19 người được giải không tạo ra được dấu ấn trong xã hội. Chùm thơ đoạt giải nhất của Nguyễn Hòa Bình chưa đặc sắc, hai bài thơ lục bát quá bình thường. Xin trích dẫn nguyên văn bài "Lục bát bây giờ" của Nguyễn Hòa Bình để bạn đọc rộng đường ngẫm suy và đánh giá: "Em còn đằm thắm như xưa / Thì, câu lục bát bây giờ... sao chênh / áo cơm, mà chuyện thường tình / Lời yêu nào dễ gập ghềnh sớm trưa / Tình đâu vẹn nắng, trọn mưa / Để câu đủ ý, khéo vừa tâm can / Trăm năm bia miệng cũng tan / Nhịp vần có thuận, đá - vàng rồi ghi / Dù thay câu sáu nào đi / Dễ đâu đằm thắm, chắc gì hơn xưa / Thương câu lục bát bây giờ...". Theo tôi, đấy là một bài thơ lục bát ý tứ không có gì mới mẻ, vần khập khiễng (ưa - ơ, ênh - inh, an - ang), nói chung là chưa nhuần nhuyễn như... lục bát.

Giải thưởng văn học hằng năm của Hội Nhà văn Việt Nam được trao cho 2 tác phẩm. Đó là tiểu thuyết "Và khi tro bụi" của Đoàn Minh Phượng (1) và bản dịch tập thơ "Khúc hát trái tim" của Mattie J.T. Stepanek - một "thần đồng thi ca" nước Mỹ đoản mệnh, do nhà thơ Hữu Việt dịch. Đoàn Minh Phượng tâm sự: "Truyện tôi viết về một cô gái không có quê hương nhà cửa, sống lang thang trên những chuyến xe lửa, đi tìm sự thật về sự biến mất của một người phụ nữ không quen. Nhiều nhân vật trong chuyện lúc nhỏ mang sự trong sáng quyết liệt của tuổi trẻ, không chấp nhận dối trá. Lớn dần, họ bắt đầu hiểu sự thật là một thử thách ghê gớm họ không vượt qua được. Họ bắt đầu nghĩ ra cách có một sự thật nào dễ sống với nó hơn, thuận lợi hơn. Họ cắt xén, may vá lại sự thật như người ta may những chiếc áo vừa cho mình mặc. Nhưng vừa cho người này thì sẽ không vừa với người khác. Và, cô gái nhân vật chính là người đi trong khu rừng đó với nỗi hoang mang. Chỉ vào giờ cuối cùng của cô, cô mới biết mình cũng như họ, đã từ chối quá khứ của mình. Điều duy nhất có thể cứu được cô vào giờ khắc ấy chính là một sự trở về...". Còn "Khúc hát trái tim" thì nhà thơ Trần Đăng Khoa nhận xét: "Thơ của Mattie sử dụng thứ ngôn ngữ vô cùng giản dị, dễ hiểu, tuy nhiên, dịch thơ vốn là một công việc không mấy dễ dàng. Để có tập thơ này đến tay bạn đọc, nhà thơ Hữu Việt đã bỏ ra rất nhiều công sức sưu tầm, tuyển chọn, chuyển ngữ làm sao cho bản dịch chuẩn xác mà vẫn không mất đi sự tươi tắn, hồn nhiên và sâu sắc của nguyên bản". Sức lan tỏa và lay động của 2 tác phẩm này đối với bạn đọc Việt Nam ra sao, hình như người ta vẫn đang phải tiếp tục chờ đợi.

Năm nay, thơ vắng bóng trong danh sách giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam. Có vẻ như sau sự cố "Lô lô" "Thương lượng với thời gian" người ta thận trọng hay khắt khe hơn chăng? Hội đồng thơ có đề cử mấy tập "Bùa lá" của Nguyễn Thị Đạo Tĩnh và "Họa mi năm ngoái" của Trần Kim Hoa lại không lọt được vào mắt xanh của đa số thành viên ban giám khảo. Dư luận chưa mấy mặn mà với giải thưởng năm nay của Hội Nhà văn Việt Nam. Chẳng bù cho năm ngoái, người ta cứ sôi sùng sục với "Thương lượng với thời gian" của Hữu Thỉnh và "Lô lô" của Ly Hoang Ly...

3 - Sáng tác văn học - đang lặng lẽ chuyển động...

Nếu nhìn vào những gì đã phơi trải ra thì văn học năm 2007 là như thế. Nó thiếu những dấu ấn đậm đà và không có phong ba cuộn nổi. Nó thiếu những cái tên tác giả, tác phẩm để người ta xôn xao bàn luận. Cho đến nay, giải thưởng năm 2007 của Hội Nhà văn cũng chưa tạo được sóng.

Điều mà nhiều người đang chờ đợi là ở các cuộc thi tiểu thuyết của Hội Nhà văn Việt Nam, cuộc vận động viết tiểu thuyết và trường ca sử thi của Bộ Quốc phòng, cuộc thi viết bút ký Việt Nam - quê hương tôi của báo Văn nghệ và cuộc thi bút ký của tạp chí Nhà văn.

Đến nay đã có hơn 90 tiểu thuyết dự thi đang được thẩm định và nó đang nóng lên sau khi có sự đầu tư chiều sâu của Hội. Xin được điểm tên một số tiểu thuyết dự thi: Trên tầng mây trắng của Hoàng Triều Ân, Chín tầng trời của Dương Hướng, Đi về phía chân trời của Tô Đức Chiêu, Hội thề của Nguyễn Quang Thân, Trời đất vô tình của Trần Huy Quang, Phúc họa khôn lường của Phan Quế, Ngọn tre già trổ hoa của Vũ Oanh, Trứng vịt lộn của Trần Kỳ Trung, Tốt sang sông của Hoàng Minh Tường, Đất xanh của Đào Thắng...

Cuộc vận động viết tiểu thuyết, trường ca sử thi của Bộ Quốc phòng đợt 2 vẫn đang ở giai đoạn đầu. Đáng chú ý là có nhiều thế hệ nhà văn nhà thơ tham gia. Ngoài các nhà văn nhà thơ thời đánh Mỹ rất quen thuộc như Hữu Thỉnh, Nguyễn Đức Mậu, Văn Lê, Khuất Quang Thụy, Nguyễn Bảo, Vương Trọng, Chu Lai, Dương Duy Ngữ..., có các nhà văn nhà thơ thế hệ sau chiến tranh như Sương Nguyệt Minh, Bùi Thanh Minh, Nguyễn Hữu Quý, Đỗ Bích Thúy...

Hai cuộc thi này có quy mô lớn, đầu tư khá nhưng cho đến bây giờ chưa thể nói được gì nhiều. Tất cả đang ở phía trước. Cũng như cuộc thi bút ký Việt Nam - Tổ quốc tôi vừa khởi động nên đích tới còn xa lắm. Cuộc thi bút ký của tạp chí Nhà văn sắp kết thúc nhưng theo tôi với những gì đã có, sẽ không tạo ra được nhiều kỳ vọng vào vụ gặt hái này. Văn chương là thế, không phải muốn là được, mong là có, mà ngoài sự lao động cực nhọc, trăn trở của người cầm bút nó còn phụ thuộc vào tài năng. Cái gì thiếu còn có thể đắp bù, tài năng đâu dễ bổ sung. Tuy nhiên, đã là nhà văn nhà thơ đích thực thì không thể không có khả năng sáng tác. Khả năng này "cộng hưởng" với không khí xã hội đang có nhiều biến động tích cực, với không khí văn chương đang dần dà sâu lắng và điềm tĩnh hơn nhất định sẽ tạo ra được những tác phẩm mới có chất lượng cao. Vì lẽ đó mà ta có quyền hy vọng vào một vụ gặt văn chương nặng bông trĩu hạt trong một thời gian không xa mấy.
 

(1) Đoàn Minh Phượng là nhà văn, nhà sản xuất phim và kinh doanh đồ gốm, dệt may sinh trưởng tại Sài Gòn, sang Cộng hòa Liên bang Đức khi tròn 20 tuổi, hiện sống và làm việc tại Thành phố Hồ Chí Minh