Chính sách Trung Đông của Mỹ dưới thời kỳ Tổng thống Joe Biden

TS. NGUYỄN THỊ THANH VÂN - ĐOÀN THỊ MAI LIÊN
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
22:37, ngày 30-10-2021

TCCS - Cương lĩnh tranh cử của Tổng thống Mỹ Joe Biden đã cam kết xóa bỏ không ít di sản ngoại giao của cựu Tổng thống Donald Trump, trong đó có chính sách đối với Trung Đông. Mỹ đã chủ trương hạn chế sự can dự trực tiếp ở Trung Đông, tuy nhiên cho đến nay, chính sách của chính quyền Tổng thống Joe Biden dường như vẫn có tính kế thừa chính sách Trung Đông của người tiền nhiệm, nhằm bảo đảm các lợi ích của Mỹ ở đây khi những diễn biến an ninh khu vực ngày càng trở nên phức tạp.

Không thay đổi mục tiêu chiến lược cốt yếu tại Trung Đông

Thứ nhất, về việc duy trì sự hiện diện của Mỹ tại khu vực Trung Đông. Khi Tổng thống Joe Biden đắc cử, đã dấy lên lo ngại về việc Mỹ sẽ giảm bớt sự hiện diện ở khu vực Trung Đông, bao gồm cả vùng Vịnh. Tuy nhiên trên thực tế, Mỹ đã duy trì sự hiện diện an ninh mạnh mẽ ở vùng Vịnh trong suốt thời gian qua, tiếp tục đào tạo và trang bị cho lực lượng quân sự của các quốc gia đồng minh, đồng thời tăng cường sự can dự với các nước còn nằm ngoài tầm ảnh hưởng của Mỹ.

Thứ hai, với mục tiêu chống khủng bố, khu vực vùng Vịnh vẫn đứng đầu danh sách ưu tiên trong chính sách đối ngoại của chính quyền Tổng thống Joe Biden. Lực lượng khủng bố đang ngày càng gia tăng khi phiến quân của Tổ chức Nhà nước Hồi giáo (IS) tự xưng tập hợp lực lượng tại Iraq, Syria và mạng lưới khủng bố Al-Qaeda không ngừng tăng cường hoạt động ở châu Phi. Thông qua các tổ chức khu vực, Mỹ và các nước đã hợp tác chặt chẽ để ngăn chặn nguồn cung cấp tài chính cho những kẻ khủng bố và ngăn chặn việc tuyển mộ thanh thiếu niên gia nhập lực lượng của chúng.

Tổng thống Mỹ Joe Biden (phải) hội đàm với Thủ tướng Israel Naftali Bennett tại Nhà Trắng, ngày 27-8-2021 _Ảnh: AP

Thứ ba, Mỹ lựa chọn can dự vào một số vấn đề nóng bỏng của khu vực, nơi các quốc gia Trung Đông đang tham gia và có thể cùng Mỹ giải quyết, chẳng hạn như cuộc xung đột giữa Israel và Palestine, vấn đề Syria, hay căng thẳng ngày càng gia tăng ở vùng Sừng châu Phi và tranh chấp đập thủy điện giữa Ai Cập và Etiopia. Đặc biệt, gần đây nhất là sự sụp đổ của Chính phủ Afghanistan và chiến thắng của lực lượng Taliban ngay sau khi Mỹ tuyên bố rút quân khỏi quốc gia này.

Thứ tư, bảo đảm việc duy trì nguồn tài nguyên quan trọng. Khi lấy lại vai trò là nhà sản xuất và xuất khẩu dầu mỏ, Mỹ và các nhà sản xuất dầu mỏ Trung Đông có khá nhiều lợi ích chung. Tháng 4-2021, Mỹ đóng vai trò trung gian giữa Tổ chức các nước xuất khẩu dầu mỏ (OPEC) và Nga để thống nhất cắt giảm sản lượng dư thừa nhằm cân bằng thị trường dầu mỏ. Từng là đối tác lớn góp phần vào sự phát triển của ngành công nghiệp dầu mỏ ở vùng Vịnh cách đây nhiều thập niên, nên hiện nay, Mỹ có nhiều cơ hội mở rộng các quan hệ đối tác mới trong nhiều lĩnh vực, như dầu đá phiến, năng lượng tái tạo, bảo toàn và tiết kiệm năng lượng.

Thứ năm, thúc đẩy thương mại và đầu tư. Việc Mỹ đang cố gắng “xốc” lại nền kinh tế bị ảnh hưởng nặng nề bởi dịch bệnh COVID-19 và các tranh chấp thương mại quốc tế cũng như các nước Trung Đông đang nỗ lực đa dạng hóa nền kinh tế, sẽ mở ra cơ hội hợp tác đáng kể cho các doanh nghiệp của Mỹ và các nước vùng Vịnh. Các hội nghị thượng đỉnh Mỹ - Trung Đông trước đây đã đưa ra nhiều cơ chế hợp tác kinh tế, trong số đó có một số cơ chế hợp tác đã được hiện thực hóa. Có thể nói, việc mở rộng không gian hợp tác kinh tế giữa Mỹ và các quốc gia Trung Đông sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho cả hai bên. Mặc dù khó tránh khỏi sự khác biệt về quan điểm trong mở rộng hợp tác kinh tế, nhưng những khác biệt đó có thể được giải quyết để hướng đến sự đồng thuận bởi hai bên cùng có các lợi ích kinh tế chung.

Thứ sáu, Trung Đông tiếp tục là địa bàn cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn. Điều đó khiến Mỹ thấy cần tiếp tục duy trì, thậm chí ở một số khía cạnh cụ thể cần mở rộng sự can dự vào Trung Đông.

Xu hướng thu hẹp chiến lược

Trong thời kỳ Chiến tranh lạnh, Mỹ thực hiện chiến lược tái cân bằng từ xa ở khu vực Trung Đông, tránh bị cuốn trực tiếp vào xung đột quân sự. Sau khi Chiến tranh lạnh kết thúc, Mỹ thực hiện chiến lược can dự trực tiếp với quy mô lớn, phát động hai cuộc chiến lớn trong khu vực, đưa ra Kế hoạch Đại Trung Đông. Năm 2011, Mỹ bước vào thời kỳ thu hẹp chiến lược ở Trung Đông với cấp độ mới và duy trì đến nay, không can thiệp trực tiếp với quy mô lớn và từ bỏ mục tiêu “dân chủ hóa”.

Xét tổng thể, việc thu hẹp chiến lược tại Trung Đông đã phản ánh sự thay đổi chiến lược của Mỹ về lợi ích toàn cầu. Đa số các đánh giá chiến lược đều cho thấy, thời gian gần đây, tầm quan trọng của Trung Đông suy giảm nhất định, vai trò của khu vực châu Á - Thái Bình Dương tăng lên. Trong thời kỳ Chiến tranh lạnh, việc kiềm chế sự mở rộng ảnh hưởng của các nước xã hội chủ nghĩa và bảo đảm cung ứng năng lượng là mục tiêu cơ bản và lợi ích then chốt của Mỹ ở khu vực Trung Đông. Sau khi Chiến tranh lạnh kết thúc, nguồn cung năng lượng và chống khủng bố là hai mối quan tâm lớn của Mỹ tại khu vực này. Hiện nay, Mỹ đã có thể tự chủ về vấn đề năng lượng hoặc tìm kiếm được những nguồn cung mới, đa dạng hơn, do vậy tầm quan trọng của nguồn dầu mỏ ở Trung Đông đối với Mỹ không còn như trước. Sau sự kiện ngày 11-9-2001, mặc dù chống khủng bố vẫn là mối bận tâm thường trực, nhưng với việc gia tăng bảo vệ an ninh từ xa của Mỹ như hiện nay thì nguy cơ bị tấn công khủng bố với quy mô lớn là điều khó có thể xảy ra. Vì thế, tiêu điểm của các cuộc tranh luận nội bộ tại Mỹ là: Khu vực Trung Đông thời gian gần đây có còn là khu vực quan trọng đối với Mỹ? Trọng điểm, phương hướng và cách thức của Mỹ đối với sự thu hẹp chiến lược ở đây là gì?

Chuyển đổi phương án can dự là hệ quả tất yếu khi phương thức cũ không những không phát huy hiệu quả mà còn có tác dụng hoàn toàn trái ngược. Từ khi thực hiện chiến lược can dự trực tiếp với quy mô lớn tại khu vực Trung Đông đến nay, Mỹ đã chi 6.400 tỷ USD cho các cuộc chiến tại khu vực này, nhưng kết quả là tình hình an ninh khu vực càng trở nên rối ren, bất ổn, Mỹ rơi vào tình thế “tiến thoái lưỡng nan”. Dư luận trong nước Mỹ đều có sự đồng thuận cao về việc không tiến hành các cuộc chiến tranh ở Trung Đông vì nó không mang lại lợi ích gì đáng kể cho Mỹ so với những mất mát, tổn thất mà Mỹ từng gánh chịu.

Không chỉ có vậy, làn sóng “dân chủ hóa” từng là mục tiêu quan trọng để duy trì sự can dự của Mỹ tại khu vực, song đến nay, Mỹ cũng đã phải điều chỉnh chính sách do gặp nhiều trở ngại. Từ năm 2006, Mỹ đã từng ủng hộ làn sóng dân chủ thông qua các cuộc bầu cử và phong trào “Mùa xuân Arab” ở nhiều nước Trung Đông, song tất cả đều mang lại kết quả không như mong đợi. Vì vậy, Mỹ đã thay đổi chính sách. Năm 2019, làn sóng “Mùa xuân Arab” thứ hai đã bùng nổ ở Trung Đông. Các cuộc biểu tình quy mô lớn đều xuất hiện ở các nước như Algieria, Sudan, Iraq, Lebanon…, dẫn đến việc lãnh đạo các nước này bị buộc phải từ chức. Tuy nhiên, Mỹ lại tỏ thái độ “vô can” trước những diễn biến chính trị này, coi đây là vấn đề nội bộ của các nước. Có thể thấy, Trung Đông không còn quan trọng như trước đối với Mỹ. Và Mỹ không còn lý do để đầu tư nhiều nguồn lực vào khu vực này.

Tình thế “tiến thoái lưỡng nan”

Việc thu hẹp chiến lược của Mỹ đã để lại khoảng trống quyền lực và các nước lớn ở trong và ngoài khu vực bắt đầu cạnh tranh nhằm lấp đầy khoảng trống này. Ở cấp độ quốc tế, Mỹ, Nga, châu Âu và Trung Quốc đều có thế mạnh riêng. Ở cấp độ khu vực, Arab Saudia, Iran, Thổ Nhĩ Kỳ, Israel, Các tiểu vương quốc Arab thống nhất (UAE), Qatar… đều muốn mở rộng tầm ảnh hưởng của mình. Ngoài khu vực, sự can dự của Nga, Trung Quốc để tranh giành ảnh hưởng tại đây cũng rất mạnh mẽ.

Xe quân sự Mỹ tuần tra ở tỉnh Hasakeh, Syria _Nguồn: AFP/TTXVN

Những năm gần đây, Mỹ nhiều lần rút quân khỏi Syria và Iraq. Hiện nay, số lượng binh lính Mỹ vẫn còn hơn 2.500 quân ở Iraq, 500 quân ở Syria đều đang chờ chính quyền Mỹ quyết định rút quân hay tiếp tục ở lại. Điều này phản ánh thế “tiến thoái lưỡng nan” của Mỹ. Nếu tiếp tục ở lại thì không phù hợp với nguyên tắc thu hẹp chiến lược, nếu rút quân thì hậu quả sẽ khó lường. Hành động tuyên bố rút quân khỏi Afghanistan vừa qua, dù nằm trong lộ trình được xác định từ thời kỳ của Tổng thống Donald Trump, nhưng hệ quả mang lại thì chính quyền Joe Biden mới thấy rõ. Câu chuyện “đi” hay “ở” càng trở nên khó khăn đối với Mỹ hiện nay.

Nhưng cũng cần thấy rằng, trong mười năm qua, sự thu hẹp chiến lược chủ yếu thể hiện ở quan niệm và chất lượng, chứ không phản ánh ở sự hiện diện số lượng quân đội. Hiện nay, Trung Đông vẫn là khu vực mà Mỹ có quân số lớn nhất ở nước ngoài. Năm 2020, số lượng binh lính Mỹ đồn trú ở khu vực Trung Đông và vùng liên quan đến Trung Đông lên tới 70.000 người, chi phí duy trì sự hiện diện của hai nhóm tác chiến tàu sân bay ở gần Trung Đông ước tính khoảng 200 tỷ USD/năm, con số này vượt ngân sách quốc phòng hằng năm của các nước trên thế giới. Trung Đông cũng là khu vực nhận được nhiều viện trợ nhất của Mỹ, chiếm khoảng 35% tổng số lượng viện trợ nước ngoài của Mỹ. Đối với các “điểm nóng”, Mỹ sử dụng tổng hợp các biện pháp như không kích, răn đe quân sự, viện trợ quân sự, hỗ trợ đồng minh nhằm liên tục can dự. Về ngoại giao, ngoài việc đạt được thỏa thuận hạt nhân Iran, là trung gian hòa giải trong tiến trình đàm phán Israel - Palestine, dưới thời kỳ Tổng thống Donald Trump, Mỹ thực hiện chính sách “sức ép tối đa” đối với Iran, đưa ra “thỏa thuận thế kỷ” để giải quyết xung đột Israel - Palestine, xây dựng Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương (NATO) “phiên bản Trung Đông”, làm trung gian hòa giải cho Liên minh Địa Trung Hải, hòa giải mối quan hệ giữa Arab Saudia và Qatar, thúc đẩy Israel và các nước Arab thiết lập quan hệ ngoại giao.

Nhiều nhà quan sát cho rằng, khi Mỹ muốn rút quân khỏi Trung Đông, thì dường như ở Trung Đông luôn xảy ra những cuộc khủng hoảng để “níu giữ” Mỹ. Chính quyền Tổng thống Joe Biden cũng không là ngoại lệ. Mỹ sẽ rút quân ở đâu, khi nào và ra sao, liệu có thể chấp nhận cái giá phải trả ở mức độ nào? Làm thế nào để cân bằng mối quan hệ giữa lợi ích và cái giá phải trả?... Đó là những vấn đề nan giải chưa có câu trả lời và Mỹ càng gặp khó khăn hơn khi hiện nay phải đối diện với “vấn đề Afghanistan”.

Những “giới hạn đỏ”

Đến nay, Mỹ cơ bản ngầm chấp nhận “thế trận” tại Trung Đông với sự can dự của các nước như Nga, Iran, Arab Saudia và Thổ Nhĩ Kỳ. Tuy nhiên, thu hẹp chiến lược cũng có điểm giới hạn. Hiện nay, Mỹ không tìm kiếm quyền kiểm soát đối với mỗi quốc gia, mỗi vấn đề “điểm nóng” ở khu vực Trung Đông, chấp nhận thực tế chia sẻ quyền lợi với các nước lớn khác trên thế giới và các quốc gia trong khu vực. Năm 2012, sau khi Đại sứ quán Mỹ tại Lybia bị tấn công, Mỹ đã rút quân khỏi nước này. Năm 2014, sau khi lực lượng vũ trang Houthi chiếm Thủ đô Sana’a của Yemen, quân đội Mỹ đã rút khỏi Yemen và quyền kiểm soát tình hình nước này rơi vào tay Arab Saudia. Năm 2015, Nga điều động quân đội đến Syria theo lời đề nghị của Tổng thống B. Assad, tuy nhiên, Mỹ không có động thái nào đáp trả và vẫn duy trì lập trường dần rút quân khỏi nước này. Năm 2019, sau các cuộc đụng độ quyết liệt giữa quân đội Mỹ và lực lượng do Iran hậu thuẫn ở Iraq, Mỹ đã không củng cố thêm binh lực mà vẫn tiếp tục thực hiện kế hoạch rút quân khỏi Iraq.

Thực tiễn cho thấy, Mỹ có không gian thỏa hiệp và nhượng bộ trong nhiều vấn đề điểm nóng, nhưng với nguyên tắc: Thứ nhất, đối với quốc gia mà Mỹ cho là thù địch, kiểm soát những nước hoặc chương trình nghị sự quan trọng, Mỹ có thể không giữ quyền chủ đạo, nhưng không thể không có quyền phát ngôn. Dù đề xuất rút quân ngay đầu nhiệm kỳ, nhưng chính quyền Tổng thống Donald Trump vẫn giữ lại 500 binh lính Mỹ ở Syria và tiếp tục ủng hộ Lực lượng dân chủ Syria. Thứ hai, Mỹ không chấp nhận nếu người Mỹ bị tấn công trực tiếp. Những năm gần đây, Iran liên tục thăm dò “giới hạn đỏ” của Mỹ khi tháng 12-2019, lực lượng dân quân Iraq được Iran hậu thuẫn bắn chết một nhà thầu quân sự Mỹ, điều này đã chạm đến “giới hạn đỏ” của Mỹ. Ngày 3-1-2020, quân đội Mỹ thực hiện trả đũa, ám sát tướng Qassem Soleimani, người đứng đầu Lực lượng đặc nhiệm Quds thuộc lực lượng Vệ binh cách mạng Hồi giáo Iran (IRGC). Thứ ba, Mỹ không cho phép các tổ chức khủng bố được xây dựng cơ sở tạm thời, thậm chí là thành lập nhà nước. Năm 2011, Mỹ rút toàn bộ quân đội khỏi Iraq; năm 2014, sau khi IS tuyên bố thành lập nhà nước, Mỹ điều động 5.000 quân quay trở lại nước này. Thứ tư, Mỹ không cho phép Iran sở hữu vũ khí hạt nhân. Đây là vấn đề đã trải qua sự giằng co kéo dài gần 20 năm, cả Mỹ và Iran đều hiểu rõ “giới hạn đỏ” của đối phương. Một khi Iran thực sự sở hữu vũ khí hạt nhân, Mỹ sẽ tiến hành không kích nước này. Có thể thấy, thu hẹp chiến lược là xu hướng chung, nhưng một khi xuất hiện “giới hạn đỏ” thì phương hướng thu hẹp chiến lược sẽ có sự thay đổi.

Các chính sách của chính quyền Mỹ

Linh hoạt trong chính sách đối với Iran

Dưới thời kỳ Tổng thống Donald Trump, tuy Mỹ rút khỏi thỏa thuận hạt nhân Iran, nhưng Iran và những quốc gia ký kết thỏa thuận này vẫn kiên trì thực hiện. Đến thời kỳ Tổng thống Joe Biden, ngay từ đầu nhiệm kỳ, Tổng thống Joe Biden đã muốn thay đổi chính sách của người tiền nhiệm, từng bước quay trở lại thỏa thuận hạt nhân nhưng sự thành công còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố.

Một là, một số điều khoản then chốt của thỏa thuận sẽ hết hạn vào năm 2025, đây chính là những điều khoản dẫn đến năng lực nghiên cứu và phát triển tên lửa của Iran cũng như chính sách khu vực của nước này sẽ không còn bị hạn chế. Trước kia, chính quyền Tổng thống Donald Trump luôn muốn gắn liền những vấn đề này với thỏa thuận hạt nhân Iran nhưng không thành công. Đến thời điểm hiện tại, chính quyền Tổng thống Joe Biden vẫn chưa xác định rõ về việc gắn kết những vấn đề này hay không, nhưng chủ trương sẽ đàm phán ngay sau khi quay trở lại thỏa thuận hạt nhân Iran.

Tổng thống đắc cử Ebrahim Raisi của Iran ủng hộ việc đàm phán giữa Iran với sáu cường quốc thế giới (gồm Mỹ, Nga, Trung Quốc, Pháp, Anh và Đức) để khôi phục thỏa thuận hạt nhân Iran năm 2015 _Nguồn: AFP/TTXVN

Hai là, Mỹ sẽ không trở lại thỏa thuận hạt nhân Iran một cách vô điều kiện. Kể từ khi Mỹ khôi phục các biện pháp trừng phạt đối với Iran vào năm 2018 đến nay, đồng tiền của Iran đã mất giá 70%, lạm phát lên tới 30%, thu nhập từ dầu mỏ giảm 70 tỷ USD, kinh tế bị thiệt hại nặng nề. Vì vậy, chính quyền Tổng thống Joe Biden không dễ dỡ bỏ các biện pháp trừng phạt đối với Iran, mà ngược lại sẽ yêu cầu Iran nhượng bộ nhiều hơn. Ngày 3-1-2021, Iran đã gửi đơn lên Cơ quan năng lượng nguyên tử quốc tế (IAEA), yêu cầu nâng mức làm giàu urani lên 20%, với mục đích muốn nắm được “con bài” trước khi đàm phán với Mỹ. Một số chuyên gia phân tích dự đoán, các cuộc đàm phán để quay trở lại thỏa thuận hạt nhân Iran sẽ không diễn ra thuận lợi.

Ba là, với tình hình chính trị trong nước của Mỹ và Iran hiện nay khó có thể đạt được thỏa thuận mới. Trong nội bộ Iran, phe cứng rắn chiếm ưu thế và đã thắng cử trong cuộc bầu cử tổng thống vào tháng 6-2021. Tổng thống đắc cử Ebrahim Raisi của Iran cho biết, ông ủng hộ việc đàm phán giữa Iran với sáu cường quốc thế giới (gồm Mỹ, Nga, Trung Quốc, Pháp, Anh và Đức) để khôi phục thỏa thuận hạt nhân Iran năm 2015; đồng thời kêu gọi Mỹ quay trở lại thỏa thuận và thực hiện các nghĩa vụ của mình. Tuy nhiên, Tổng thống E.Raisi tuyên bố sẽ không gặp Tổng thống Joe Biden ngay cả khi Mỹ gỡ bỏ mọi lệnh trừng phạt đối với Iran. Đây là quan điểm hết sức cứng rắn khiến cho các điều chỉnh chính sách đối với Iran của Mỹ hiện nay dù sẽ vẫn diễn ra nhưng kết quả đạt được không dễ dàng. Đáp lại động thái này, ngày 28-6-2021, Tổng thống Joe Biden tuyên bố rằng Iran sẽ “không bao giờ có được vũ khí hạt nhân”. Chính quyền Mỹ cũng đã ra lệnh tiến hành cuộc không kích lần thứ hai nhằm vào các nhóm phiến quân thân Iran ở Iraq và Syria. Các cuộc không kích diễn ra chỉ vài ngày sau khi thỏa thuận tạm thời giữa Iran và IAEA sụp đổ, khiến các thanh sát viên quốc tế không thể tiếp cận được các địa điểm hạt nhân của Iran. Diễn biến ngày càng khó lường này sẽ tiếp tục vượt ra ngoài tầm kiểm soát nếu không có sự quay trở lại của các hoạt động đàm phán ngoại giao, bởi đây vẫn là biện pháp khả thi duy nhất để chính quyền Mỹ thực hiện cam kết “không để Iran phát triển vũ khí hạt nhân”. Nếu không nhanh chóng trở lại thỏa thuận hạt nhân Iran, Tổng thống Joe Biden sẽ phải đối mặt với nguy cơ xảy ra một cuộc khủng hoảng hạt nhân và có thể leo thang thành một cuộc chiến. Vì vậy, chính sách đối với Iran của Mỹ cần hết sức linh hoạt trong thời gian tới.

Thay đổi cách xử lý đối với vấn đề Israel và Palestine

Dưới thời kỳ Tổng thống Donald Trump, chính sách của Mỹ là ủng hộ Israel, không tán thành “phương án hai nhà nước”, tuyệt đối từ chối thiện chí đàm phán của Palestine và chính sách này đã bị chỉ trích rộng rãi ở trong và ngoài nước. Một trong những thành tựu ngoại giao dưới thời kỳ Tổng thống Donald Trump chính là thúc đẩy bình thường hóa quan hệ giữa UAE, Bahrain, Sudan, Maroc với Israel. Sau khi nắm quyền, Tổng thống Joe Biden tiến hành khôi phục sự ủng hộ đối với “phương án hai nhà nước”.

Các chuyên gia phân tích nhận định, phương án hai nhà nước vẫn mang tính hợp pháp, vì vậy, khôi phục sự ủng hộ đối với phương án này có thể xây dựng hình ảnh của Mỹ trên thế giới. Nhưng với thực tế hiện nay, khả năng thành công của phương án này là rất thấp. Hơn nữa, sau khi mối quan hệ giữa Israel với các nước Arab có bước đột phá, vấn đề Palestine bị gạt ra bên lề, chính quyền Mỹ hiện nay không thể trao cho Israel những lợi ích như chính quyền tiền nhiệm, nên ít có khả năng gây sức ép lớn hơn đối với nước này. Ngoài tuyên bố ủng hộ phương án hai nhà nước, chính quyền Mỹ hiện nay vẫn chưa có hành động nào trên thực tế.

Theo Tổng thống Joe Biden, người tiền nhiệm của ông đã thúc đẩy được các nước Arab thiết lập quan hệ ngoại giao với Israel, nhưng chưa thực sự hiệu quả. Vì vậy, ông sẽ tiếp tục những công việc này, nhưng sẽ quay lại quỹ đạo truyền thống của ngoại giao Mỹ, nắm chắc mối quan hệ giữa các bên một cách cân bằng và toàn diện hơn.

Các cam kết đối với vấn đề Iraq

Tháng 10-2011, Tổng thống B. Obama đưa ra tuyên bố bất ngờ nhằm kết thúc cuộc chiến do Mỹ dẫn đầu tại Iraq. Đến nay, Tổng thống đương nhiệm Joe Biden cũng đưa ra tuyên bố mang “âm hưởng” tương tự: “Sẽ không còn lực lượng Mỹ có vai trò chiến đấu ở Iraq trước ngày 31-12-2021”. Hiện có khoảng 2.500 binh lính Mỹ đóng quân tại Iraq. Tuy nhiên, việc rút quân hoàn toàn khỏi Iraq sẽ đặt ra một vấn đề đối với chính quyền Tổng thống Joe Biden bởi khi đó, Iran không chỉ nắm giữ tầm ảnh hưởng chính trị ở Iraq mà còn kiểm soát nhiều lực lượng bán quân sự là đồng minh của Iran đang hoạt động tự do tại Iraq. Việc Mỹ rút quân hoàn toàn sẽ khiến Iran dễ dàng thiết lập tầm ảnh hưởng ở khu vực. Vì vậy, có thể, chính quyền Mỹ sẽ phải tính toán lại vấn đề rút quân này.

Có thể nói, giải quyết các vấn đề ở Trung Đông vẫn là một bài toán khó đối với chính quyền Tổng thống Joe Biden. Tương lai của Trung Đông - một khu vực vốn đang phải đối mặt với những thách thức và bất ổn kéo dài trong nhiều thập niên qua - có thể ổn định được hay không còn phải dựa vào sự hỗ trợ của cộng đồng quốc tế, đặc biệt là những cường quốc khác có ảnh hưởng và lợi ích trong khu vực và trên thế giới./.