Khảo sát 4 năm thực hiện Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” với cách nhìn bao quát nhất, có thể thấy những gì đã đạt được để tiếp tục phát huy và những vấn đề đang đặt ra cần khắc phục, không ngoài mục đích làm cho tư tưởng, tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh ngày càng lan tỏa, thấm sâu vào cộng đồng, góp phần xây dựng nền tảng tinh thần xã hội để đất nước ta phát triển nhanh, lành mạnh, bền vững.

Những cái được căn bản

Đánh giá kết quả Cuộc vận động, tuyệt đại đa số ý kiến từ các đối tượng khác nhau được khảo sát, đã tập trung chủ yếu vào hai lĩnh vực: về nhận thức và về làm theo tấm gương đạo đức của Bác trong cán bộ, đảng viên và toàn xã hội.

Về nhận thức, đã tạo được sự chuyển biến trong nhận thức của cán bộ, đảng viên ở 2 vấn đề: một là, nhận thức về tư tưởng, tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh; hai là, nâng cao nhận thức về ý nghĩa, tầm quan trọng và sự cần thiết phải “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”

- Trong nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên về tư tưởng, tấm gương đạo đức của Bác được xã hội thừa nhận kết quả ở 3 khía cạnh: Một là, đã tạo được sự nhận thức rộng rãi hơn trong Đảng, ngoài xã hội về tư tưởng, tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Trước đây, việc hiểu sâu, biết rộng về tư tưởng, tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh chỉ tập trung ở những người làm công tác nghiên cứu, giảng dạy tư tưởng Hồ Chí Minh và những người đã từng sống, làm việc trực tiếp hoặc có điều kiện tiếp xúc với Bác, nay hàng triệu người được học tập, nên hiểu biết về tư tưởng, tấm gương đạo đức của Bác một cách hệ thống hơn. Hai là, Cuộc vận động trực tiếp góp phần không nhỏ nâng cao hiểu biết cho cán bộ, đảng viên và nhân dân về tư tưởng, đạo đức cách mạng, về đức hy sinh vì mọi người, vì Tổ quốc, vì dân tộc, về sự gắn bó máu thịt giữa Đảng và nhân dân trong tư tưởng và hành động của Bác. Ba là, trên cơ sở hiểu biết về tư tưởng, tấm gương đạo đức của Bác, tuyệt đại đa số cán bộ, đảng viên, càng thừa nhận tư tưởng, tấm gương đạo đức của Hồ Chí Minh không phải cao siêu khó làm theo, càng không chỉ là của một thời, mà là chuẩn mực để mỗi người hoàn toàn có thể học tập và làm theo trong điều kiện hiện nay trên mọi cương vị công tác, mọi nhiệm vụ được phân công.

- Về ý nghĩa, tầm quan trọng và sự cần thiết phải “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” được người học nhận thức một cách sâu sắc. Sự chuyển biến này chủ yếu thể hiện ở chỗ, trong điều kiện mới của cách mạng, cùng với việc tiếp tục đẩy mạnh công cuộc đổi mới đất nước, thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh, rất cần phải khắc phục sự suy thoái về tư tưởng, đạo đức, lối sống của không ít cán bộ, đảng viên cũng như sự xuống cấp của đạo đức xã hội nói chung. Bởi vậy, việc tạo ra phong trào sâu rộng trong học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh là thực sự cần thiết. Cuộc vận động này không chỉ có ý nghĩa thiết thực tác động sâu sắc đến nền đạo đức xã hội, góp phần bảo tồn, phát huy những giá trị nhân văn, đạo lý tốt đẹp của dân tộc, mà điều quan trọng hơn, có tác dụng mạnh mẽ đến việc chấn chỉnh lại đạo đức, lề lối, tác phong làm việc của đội ngũ cán bộ, đảng viên, và do đó, đem lại hiệu quả trong việc đổi mới hệ thống chính trị cũng như công cuộc cải cách hành chính.

Đối với đông đảo các tầng lớp nhân dân, thông qua cuộc vận động này, không chỉ tình cảm về vị lãnh tụ kính yêu của dân tộc được tăng cường, củng cố và hình ảnh của Người ngày càng trở nên sâu đậm, mà điều rất quan trọng là những phẩm chất đạo đức cao đẹp của Người được hiển hiện rõ hơn, soi rọi cho mọi người học tập, làm theo, bằng những việc làm cụ thể, thiết thực, thể hiện rõ nhất trong cách ứng xử giữa con người với nhau.

Những chuyển biến về làm theo, tư tưởng, tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh được đông đảo người học khẳng định trên 6 mặt chính sau:

Một là, nâng cao ý thức trách nhiệm, thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị chung của cả nước và từng địa phương, cơ sở. Nhìn tổng quát, 5 năm nhiệm kỳ Đại hội X, bối cảnh quốc tế và trong nước có nhiều khó khăn, thách thức, nhất là do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính, suy thoái kinh tế toàn cầu, nhưng với ý thức, trách nhiệm cao của cán bộ, đảng viên quyết tâm vượt qua khó khăn, thách thức, nên chúng ta vẫn đạt được những thành tựu quan trọng. Duy trì được tốc độ tăng trưởng kinh tế khá (bình quân 6,9%/năm), các ngành đều có bước phát triển, quy mô nền kinh tế tăng lên; đời sống của nhân dân tiếp tục được cải thiện; chính trị - xã hội ổn định; quốc phòng, an ninh được tăng cường; độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ được giữ vững; hoạt động đối ngoại, hội nhập quốc tế được mở rộng, vị thế quốc tế của nước ta được nâng cao.

Hai là, công tác xây dựng, chỉnh đốn Ðảng được quan tâm và đạt một số kết quả tích cực. Việc triển khai Cuộc vận động theo các chủ đề hàng năm đã trực tiếp thúc đẩy công tác nghiên cứu và giáo dục lý luận chính trị trong Đảng, đặc biệt là nghiên cứu, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong điều kiện mới, góp phần vào việc tổng kết, bổ sung, phát triển Cương lĩnh, xây dựng Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm (2011 – 2020) và các văn kiện khác trình Ðại hội XI của Ðảng. Công tác tuyên truyền, giáo dục chính trị tư tưởng có đổi mới, chú trọng tư tưởng, tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh và được dư luận đánh giá tốt. Cấp ủy các cấp đã dành nhiều thời gian để tập trung chỉ đạo có kết quả bước đầu cuộc vận động "Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh", gắn với nhiệm vụ xây dựng, chỉnh đốn Ðảng.

Trong công tác tổ chức, cán bộ, nhiều chủ trương, quan điểm, giải pháp lớn về công tác cán bộ trong tư tưởng Hồ Chí Minh đã được thể chế hóa, cụ thể hóa thành các quy chế, quy định. Ðã triển khai tương đối đồng bộ các khâu quản lý, đánh giá, tuyển chọn, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, luân chuyển, bố trí, sử dụng và thực hiện chính sách cán bộ, trong đó những tiêu chuẩn đạo đức, lối sống theo tư tưởng Hồ Chí Minh được quan tâm.

Trong việc củng cố, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng, chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên đã chú trọng cả phẩm chất và năng lực, đặc biệt là các phẩm chất đạo đức. Trong công tác kiểm tra, giám sát, đã tiến hành kiểm tra các chương trình, dự án; quản lý và sử dụng đất đai, đầu tư xây dựng cơ bản; thực hành tiết kiệm, chống tham nhũng, lãng phí và công tác cán bộ; xử lý nghiêm tổ chức đảng, đảng viên có sai phạm, góp phần phòng ngừa, ngăn chặn vi phạm, tăng cường kỷ luật, kỷ cương. Việc công khai kết quả các kỳ họp của Ủy ban kiểm tra Trung ương là một bước thực hiện tư tưởng Hồ Chí Minh và được dư luận hoan nghênh. Trong phương thức lãnh đạo, đã chú trọng mở rộng, phát huy dân chủ trong Ðảng, thí điểm chủ trương đại hội đảng bầu trực tiếp ban thường vụ, bí thư, phó bí thư. Phong cách, lề lối làm việc của các cơ quan lãnh đạo Ðảng từ Trung ương đến cơ sở tiếp tục được cải tiến theo hướng sâu sát cơ sở, gần gũi nhân dân…

Ba là, thực hiện làm theo tư tưởng Hồ Chí Minh về thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, trong điều kiện suy giảm kinh tế càng trở nên quan trọng và được các cấp ủy đảng, chính quyền quan tâm chỉ đạo, kiểm tra, đôn đốc. Tại nhiều địa phương, cơ sở, tiết kiệm trở thành phong trào, có sự tham gia đông đảo của cán bộ, đảng viên, các đoàn thể chính trị. Ở nhiều địa phương, tiết kiệm thể hiện trong việc tự giác giảm, loại bỏ những chi phí không cần thiết, bất hợp lý trong cưới hỏi, tang ma, lễ hội... của từng gia đình, dòng họ. Các giải pháp tiết kiệm tài sản công, hạn chế hoặc tạm đình chỉ xây dựng trụ sở cơ quan, mua sắm xe công được quan tâm chỉ đạo và thực hiện kiên quyết. Hành vi tiết kiệm chi tiêu công, từ cái nhỏ nhất như trang giấy, mực in, ghim gài, đến ô tô, vé máy bay, đi công tác nước ngoài... đã thể hiện khá rõ trong các cơ quan đảng, nhà nước, trong nhận thức của lãnh đạo các cấp, thành thói quen của nhiều cán bộ, đảng viên, công chức. Qua báo cáo cho thấy, có cơ quan bộ, ngành, tập đoàn kinh tế tiết kiệm được hàng trăm tỉ đồng mỗi năm. Có nơi, tiền tiết kiệm trong chi phí thường xuyên được công bố công khai và góp vào quỹ xây dựng nhà tình nghĩa cho các địa phương.

Bốn là, việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân do dân và vì dân được đẩy mạnh; công tác cải cách thủ tục hành chính, chống quan liêu, tham nhũng được quan tâm hơn và có kết quả nhất định. Quốc hội tiếp tục được kiện toàn về tổ chức, có nhiều đổi mới, nâng cao chất lượng hoạt động với nhiều cải tiến nội dung, phương pháp công tác; đề cao trách nhiệm của đại biểu Quốc hội trước cử tri. Cơ cấu tổ chức, bộ máy của Chính phủ được sắp xếp, điều chỉnh, giảm đầu mối theo hướng tổ chức các bộ quản lý đa ngành, đa lĩnh vực. Quản lý, điều hành của Chính phủ, các bộ năng động, tập trung nhiều hơn vào quản lý vĩ mô và giải quyết những vấn đề lớn, quan trọng. Việc thực hiện thí điểm đổi mới về tổ chức bộ máy chính quyền địa phương (không tổ chức hội đồng nhân dân quận, huyện, phường) được tập trung chỉ đạo để rút kinh nghiệm.

Tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp có một số đổi mới. Việc thực hiện các thủ tục tố tụng ngày càng tốt hơn, hạn chế được tình trạng truy tố, xét xử oan, sai hay bỏ lọt tội phạm; chất lượng hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án được nâng lên. Cải cách hành chính được coi là một trong những giải pháp đột phá đã được quan tâm, triển khai mạnh mẽ cả Trung ương và địa phương. Chính phủ đã xây dựng Đề án 30, chỉ đạo cải cách thủ tục hành chính khẩn trương, quyết liệt hơn. Đã rà soát, bước đầu tổng hợp thành bộ thủ tục hành chính thống nhất và công bố công khai để nhân dân dễ thực hiện và kiểm tra giám sát công chức nhà nước trong thực hành quản lý hành chính.

Việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 3 (khóa X) về tăng cường sự lãnh đạo của Ðảng đối với công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí và Luật Phòng, chống tham nhũng, Luật Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí được chỉ đạo tích cực, đạt một số kết quả. Nhiều vụ án tham nhũng được đưa ra xét xử. Trên một số lĩnh vực, lãng phí, tham nhũng được kiềm chế.

Năm là, việc xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa có tiến bộ, quyền làm chủ của nhân dân, cả qua dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp theo quy chế dân chủ ở cơ sở được quan tâm tổ chức thực hiện. Trong 4 năm qua, Ðảng và Nhà nước tiếp tục ban hành nhiều chỉ thị, nghị quyết, văn bản quy phạm pháp luật nhằm phát huy hơn nữa quyền làm chủ, bảo đảm lợi ích của nhân dân, vai trò giám sát của nhân dân đối với hoạt động của các tổ chức đảng, cơ quan nhà nước, cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức. Hoạt động của Quốc hội ngày càng có ý nghĩa thiết thực, thu hút được sự quan tâm của nhân dân. Việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, xử lý các hành vi vi phạm pháp luật được coi trọng. Các cấp ủy đảng, chính quyền đã chú ý lắng nghe, tăng cường đối thoại với các tầng lớp nhân dân, tôn trọng các loại ý kiến khác nhau.

Việc xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân theo tư tưởng Hồ Chí Minh được chú trọng. Công tác dân vận của hệ thống chính trị có một số đổi mới. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân phát huy tốt hơn vai trò tập hợp, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc; củng cố, mở rộng tổ chức, phát triển đoàn viên, hội viên, tổ chức nhiều phong trào thi đua, nhiều cuộc vận động có hiệu quả thiết thực...; cùng Nhà nước chăm lo, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân, tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội, góp phần tích cực vào những thành tựu của đất nước.

Sáu là, những chuyển biến trong cán bộ, đảng viên, đoàn thể chính trị và trong nhân dân. Kết quả điều tra dư luận xã hội cho rằng, có sự chuyển biến khá rõ trong cán bộ, đảng viên và nhân dân trong học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh (82,5% số người được hỏi cho rằng đã có sự chuyển biến, trong đó, 39,3% cho rằng có chuyển biến tốt và 43,2% cho rằng có chuyển biến; trong thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, 30,5% cho rằng có chuyển biến tốt và 51,6 % cho rằng có chuyển biến; về chống quan liêu, tham nhũng, 66,6% cho rằng có chuyển biến, trong đó có 22,8% cho rằng có chuyển biến tốt).

Về các tầng lớp, nhóm xã hội, qua điều tra dư luận cho thấy, trong số 10 nhóm, tầng lớp xã hội được nêu ra, có 4 tầng lớp xã hội được đa số ý kiến (trên 50%) đánh giá đã tích cực thực hiện Cuộc vận động đó là: Cán bộ hưu trí; Quân đội; Cán bộ, công chức bình thường; Cán bộ lãnh đạo, quản lý các ngành, các cấp.

Về chuyển biến trong đạo đức, lối sống của các tầng lớp nhân dân cho thấy, trong mức độ chung, ý kiến cho rằng chuyển biến tốt đạt 39,25%, có chuyển biến đạt 43,31%, tổng cộng đạt 82,56%, thì mức độ chuyển biến tốt cao nhất là trong nông dân (54,02%); tiếp đến là hưu trí (41,18%), học sinh, sinh viên (40%); công nhân (40%). Nhìn chung, hầu hết các tầng lớp nhân dân đều có sự chuyển biến về đạo đức, lối sống, qua đó cho thấy Cuộc vận động đã tác động sâu đến mọi tầng lớp, đối tượng, lĩnh vực hoạt động của người dân. Chính nhờ những chuyển biến đó mà tạo nên những chuyển biến tích cực chung của xã hội.

Những hạn chế, khuyết điểm cần khắc phục

- Hạn chế, khuyết điểm nổi bật nhất là việc làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh chưa diễn ra mạnh mẽ trong Đảng và trong xã hội. Trong khi nhiều cán bộ, đảng viên có chức, có quyền việc nói và làm theo còn chưa rõ, thì việc làm theo của cán bộ, đảng viên ở nhiều cơ sở (đặc biệt là cựu chiến binh, cán bộ hưu trí) đã thể hiện rõ và cụ thể hơn, góp phần vào phong trào chung của Cuộc vận động ở cơ sở. Điều này chứng tỏ việc chưa tích cực làm theo không hoàn toàn do nhận thức.

- Việc triển khai Cuộc vận động diễn ra không đồng đều ở các ngành, địa phương, cơ quan đơn vị. Với các địa phương, việc thực hiện kế hoạch và các quy trình triển khai theo quy định được tiến hành đầy đủ hơn so với các cơ quan Trung ương và doanh nghiệp nhà nước. Ở một số cơ quan, đơn vị, sự quan tâm chỉ đạo của cấp ủy càng về sau càng có biểu hiện nhạt dần.

- Chưa phát huy được vai trò nêu gương của cán bộ lãnh đạo chủ chốt – dù đây là một nguyên tắc rất quan trọng trong thực hành đạo đức theo tư tưởng Hồ Chí Minh, được dư luận xã hội và đông đảo cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân rất mong muốn. Bộ Chính trị, Ban Chỉ đạo Trung ương cũng đã nhận ra điều này, có nhiều hình thức yêu cầu, nhắc nhở, động viên. Nhưng nói chung, chưa tạo ra cơ chế khuyến khích cũng như kiểm tra, giám sát để phát huy có hiệu quả vai trò nêu gương trong triển khai Cuộc vận động .

- Sự gắn kết giữa nội dung triển khai Cuộc vận động với công tác xây dựng Đảng, thực hiện nhiệm vụ chính của mỗi cơ quan, đơn vị, các cuộc vận động, phong trào đang triển khai…, nói chung chưa tốt.

Kết quả là tác động của việc triển khai Cuộc vận động đến kết quả của công tác xây dựng Đảng chưa nhiều. Các mặt của công tác xây dựng Đảng, như tổ chức, kiểm tra, cán bộ chưa quán triệt đầy đủ các tiêu chuẩn về đạo đức theo tư tưởng Hồ Chí Minh (cả trong triển khai và trong đánh giá). Việc triển khai Cuộc vận động cũng chưa gắn kết chặt chẽ với nhiệm vụ chính trị, đặc biệt là công tác chuyên môn của cơ quan, đơn vị và của mỗi cán bộ, đảng viên; với các phong trào đang được triển khai trong Đảng và xã hội (như phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”…). Kết quả chung là việc tiến hành Cuộc vận động vẫn nặng tính phong trào, làm theo từng đợt, chưa trở thành hoạt động liên tục, thường xuyên, mặc dù Ban Chỉ đạo Trung ương và Ban Chỉ đạo các cấp đã liên tục đề ra các biện pháp đôn đốc, nhắc nhở, kiểm tra …

Nguyên nhân dẫn tới kết quả

Một là, Bộ Chính trị, Ban Bí thư rất quan tâm trong tổ chức và chỉ đạo triển khai Cuộc vận động, thể hiện rõ rệt nhất là việc ban hành Chỉ thị 06-CT/TW và quyết định Ban Chỉ đạo Trung ương với sự tham gia của các đồng chí lãnh đạo cao nhất của Đảng, Nhà nước, và trong suốt hành trình Cuộc vận động đã chỉ đạo thường xuyên, trực tiếp đối với các ngành, địa phương trong triển khai.

Hai là, sự tham gia tích cực, tự giác của đông đảo cán bộ, đảng viên, nhân dân, các đoàn thể chính trị xã hội, văn nghệ sỹ, báo chí, phát thanh, truyền hình…Sự tham gia đó không chỉ tạo ra phong trào mà còn thúc đẩy việc triển khai mạnh mẽ hơn Cuộc vận động ở cơ sở và trong xã hội.

Ba là, sức lôi cuốn từ chính tư tưởng và tấm gương đạo đức trong sáng, cao thượng, nhân văn và mẫu mực của Hồ Chí Minh.

Nguyên nhân của những hạn chế, khuyết điểm

Một là, tồn tại xã hội ở nước ta hiện nay có tác động không thuận đến kết quả triển khai Cuộc vận động. Khi mà nhu cầu thiết yếu từ đời sống của đại đa số cán bộ, đảng viên và gia đình vẫn đang chi phối lao động và các hoạt động xã hội của họ, do đó trong nhận thức, nhiều người hiểu rất rõ về ý nghĩa, tầm quan trọng của đạo đức, lối sống; thấy cần thiết phải học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, nhưng trong hành động cụ thể lại không thường xuyên thực hành, thậm chí có lúc vi phạm (cố ý hoặc không cố ý).

Hai là, tác động tiêu cực từ mặt trái của cơ chế kinh tế thị trường. Kinh tế thị trường chắc chắn sẽ dẫn đến thương mại hoá với một ý nghĩa nào đó trong các quan hệ xã hội.

Ba là, tính chất quá độ của đời sống kinh tế - xã hội nước ta hiện nay và sự yếu kém của quản lý kinh tế, xã hội là nguyên nhân khách quan dẫn tới hạn chế của Cuộc vận động.

Bốn là, tác động khách quan của quá trình toàn cầu hoá và chiến lược diễn biến hoà bình của các thế lực thù địch là điều kiện khách quan dẫn đến hạn chế trong triển khai Cuộc vận động.

Năm là, công tác tổ chức, bộ máy chỉ đạo Cuộc vận động chưa có sự thống nhất và quán triệt một các toàn diện ngay từ đầu.

Sáu là, hướng dẫn các nội dung, quy trình, quy định triển khai Cuộc vận động còn chậm và ban đầu còn thiếu thống nhất.

Bảy là, sự tham gia của các thành viên trong hệ thống chính trị triển khai Cuộc vận động chưa đều, sự phối hợp chưa chặt chẽ. Có nơi coi đây là công việc của Đảng và giao cho Ban Tuyên giáo cấp ủy thực hiện.

Tám là, vì nhiều lý do, nhiều đồng chí lãnh đạo cấp cao, cán bộ chủ trì, chủ chốt chưa thực sự tích cực tham gia tuyên truyền, vận động triển khai Cuộc vận động, phát huy vai trò nêu gương của cá nhân để đẩy mạnh việc làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh trong Đảng và xã hội.

Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh là trực tiếp góp phần quan trọng vào việc xây dựng nền tảng tinh thần của xã hội, để đất nước ta phát triển nhanh, bền vững cần phải được nhận thức là công việc lâu dài, thường xuyên của toàn xã hội mà trước hết là trong Đảng và hệ thống chính trị, với đồng bộ những giải pháp khả thi. /.