Bàn về định hướng chiến lược an sinh xã hội giai đoạn 2021 - 2030

TS. NGUYỄN HỮU DŨNG
Nguyên Viện trưởng Viện Khoa học lao động và xã hội
21:50, ngày 12-01-2020

TCCS - Giai đoạn 2021 - 2030 là giai đoạn có tính bứt phá về phát triển kinh tế - xã hội đất nước theo hướng tăng trưởng sáng tạo và bảo đảm an sinh xã hội. Bởi vậy, chiến lược an sinh xã hội cần phải được xây dựng theo cách tiếp cận mới.

Đào tạo nghề là một trong nhiều chính sách an sinh xã hội góp phần từng bước nâng cao chất lượng cuộc sống người dân_Nguồn:   trungtamdaynghethanhxuan.vn

Một số cách tiếp cận xây dựng chiến lược an sinh xã hội

Một là, mọi người dân thực sự có quyền được bảo đảm an sinh xã hội.

Xét về mặt quyền con người, quyền được bảo đảm an sinh xã hội là một trong những quyền cơ bản của con người. Đó là nhu cầu tồn tại và phát triển như là lẽ tự nhiên. Do đó, Hiến pháp năm 2013 quy định “Công dân có quyền được bảo đảm an sinh xã hội” (Điều 34) là tất yếu khách quan, vừa là mục tiêu phát triển của đất nước, vừa phù hợp với xu hướng tiến bộ của thế giới.

Phương pháp tiếp cận dựa trên quyền được bảo đảm an sinh xã hội của người dân là phương pháp tiếp cận mới trong thế giới đương đại và được nhiều quốc gia áp dụng. Phương pháp này có sự khác biệt với phương pháp truyền thống ở chỗ không chỉ quan tâm đến mục tiêu đạt được về bảo đảm an sinh xã hội của người dân mà còn chú trọng đến quy trình, cách thức lựa chọn để đạt được những mục tiêu đó và được xem xét theo một cấu trúc hệ thống của an sinh xã hội.

Về thực chất, phương pháp tiếp cận này lấy các tiêu chuẩn về quyền được bảo đảm an sinh xã hội của con người làm cơ sở xác định kết quả mong đợi và lấy các nguyên tắc làm điều kiện, khuôn khổ cho quá trình hành động hướng đến thúc đẩy đạt được kết quả là bảo vệ con người.

Cách tiếp cận về quyền được bảo đảm an sinh xã hội rất khác với cách tiếp cận an sinh xã hội hướng đến “người nghèo”. Các chương trình an sinh xã hội được xây dựng trên cơ sở người dân là “công dân” chứ không trên cơ sở mức độ nghèo đói. Các chương trình trao quyền có mức bao phủ cao hơn, thường là phổ cập toàn dân. Ngược lại, các chương trình giảm nghèo thường có tỷ lệ bỏ sót đối tượng cao. Vì vậy, các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam cần chuyển áp dụng cách tiếp cận từ giải quyết nghèo đói sang cách tiếp cận theo quyền được bảo đảm an sinh xã hội.

Hai là, hệ thống an sinh xã hội tiếp cận theo chuẩn mực quốc tế và phù hợp với xu hướng chung của các nước trên thế giới.

An sinh xã hội tiếp cận dựa trên quyền được tiêu chuẩn hóa và quy định trong nhiều công ước quốc tế của Liên hợp quốc, công ước của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO), nhất là Công ước 102 (năm 1952) của ILO “Về Quy phạm tối thiểu về an sinh xã hội”. Điều 22 trong “Tuyên bố thế giới về nhân quyền” (năm 1948) của Liên hợp quốc nêu: Mỗi người, với tư cách là thành viên của xã hội, đều có quyền được bảo đảm an sinh xã hội và quyền này phải được hiện thực hóa thông qua nỗ lực quốc gia và hợp tác quốc tế và phải phù hợp với cơ cấu tổ chức, nguồn lực, điều kiện kinh tế, xã hội và văn hóa của từng quốc gia. Điều 25 của Tuyên bố này còn ghi nhận: “(i) Mọi người đều có quyền được hưởng một mức sống phù hợp với sức khỏe và sự no ấm cho bản thân và gia đình bao gồm: thực phẩm, quần áo, nhà ở, y tế và các dịch vụ xã hội cần thiết, quyền an sinh xã hội trong lúc thất nghiệp, đau ốm, tàn tật, góa bụa, tuổi già hay các tình huống thiếu thốn khác do hoàn cảnh ngoài khả năng kiểm soát của mình; (ii) Các bà mẹ và trẻ em phải được hưởng sự chăm sóc và trợ giúp đặc biệt. Tất cả mọi trẻ em, sinh ra có hôn thú hay không có hôn thú, đều được xã hội bảo vệ một cách bình đẳng”.

Theo cách tiếp cận trên, trong hệ thống an sinh xã hội ở Việt Nam vẫn còn có những “khoảng trống” cần phải được tiếp tục “lấp đầy”. Cụ thể:

- An sinh xã hội của Việt Nam tuy đã và đang tiếp cận dựa trên quyền theo hướng phổ quát, bao phủ toàn dân, nhất là về y tế, giáo dục, nhưng do nguồn lực đầu tư cho an sinh xã hội còn hạn chế nên vẫn phải tập trung ưu tiên trước hết cho nhóm người nghèo, đối tượng yếu thế, dễ bị tổn thương, vùng sâu, vùng xa, đồng bào dân tộc thiểu số,... cho nên độ bao phủ của an sinh xã hội theo hướng toàn dân còn thấp.

- Hệ thống an sinh xã hội ở Việt Nam với mô hình, cấu trúc chung là đa tầng, bao gồm các trụ cột cơ bản theo Nghị quyết số
15-NQ/TW, ngày 1-6-2012, của Ban Chấp hành Trung ương khóa XI, “Một số vấn đề về chính sách xã hội giai đoạn 2012  - 2020” là phù hợp với xu hướng chung của thế giới, nhưng còn thiếu linh hoạt; mối quan hệ và gắn kết cũng như chia sẻ giữa các trụ cột an sinh xã hội chưa thật chặt chẽ để có thể hỗ trợ lẫn nhau trong phòng ngừa, giảm thiểu và khắc phục rủi ro cho người dân.

- Hệ thống an sinh xã hội với các chính sách cụ thể được thiết kế cho từng nhóm đối tượng đã bước đầu theo vòng đời gắn với rủi ro theo từng độ tuổi, nhưng cũng chưa thật gắn kết chặt chẽ với nhau để hỗ trợ và chia sẻ rủi ro giữa các thế hệ theo từng giai đoạn phát triển và vòng đời của con người.

- Chính sách an sinh xã hội phải bảo đảm cho mọi người dân có mức sống tối thiểu theo chuẩn quốc gia. Song thực tế ở Việt Nam chính sách an sinh xã hội vẫn chưa bảo đảm cho mọi người dân có mức sống này và từng loại chính sách lại có các chuẩn khác nhau, như mức chuẩn nghèo, mức chuẩn trợ giúp xã hội, mức chuẩn bảo đảm các dịch vụ xã hội cơ bản... Do đó, hệ số bỏ sót đối tượng còn lớn, một bộ phận không nhỏ người dân sống dưới mức sống tối thiểu chưa được hưởng lợi.

Ba là, tiếp cận kế thừa và tiếp tục phát triển, hoàn thiện hệ thống an sinh xã hội hiện hành.

Nhận thức về quyền an sinh xã hội của người dân qua các kỳ đại hội Đảng từ khi đổi mới đến nay là sự kế thừa, luôn phát triển phù hợp với trình độ phát triển kinh tế - xã hội của đất nước trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và từng bước tiếp cận các chuẩn mực quốc tế trong quá trình hội nhập. Đặc biệt, trong Nghị quyết số 15-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng “Một số vấn đề về chính sách xã hội giai đoạn 2012 - 2020”, lần đầu tiên Đảng ta đã có nhận thức, quan điểm, giải pháp ở tầm chiến lược về bảo đảm an sinh xã hội tiếp cận dựa trên quyền con người. Đó là cơ sở và định hướng cho việc thể chế hóa thành cơ chế, chính sách, pháp luật của Nhà nước và đang đi vào cuộc sống, được nhân dân đồng tình, ủng hộ. Do đó, Chiến lược phát triển hệ thống an sinh xã hội giai đoạn 2021 - 2030 cần kế thừa những nhận thức, quan điểm, định hướng, chính sách an sinh xã hội hiện hành để tiếp tục hoàn thiện, nâng lên tầm cao mới cho giai đoạn 2021 - 2030.

Những thách thức đang đặt ra

- Thách thức về “bẫy thu nhập trung bình”. Việc Việt Nam trở thành nước đang phát triển có thu nhập trung bình là một cơ hội, điều kiện quan trọng đối với phát triển hệ thống an sinh xã hội giai đoạn 2021 - 2030. Song, Việt Nam vẫn là nước đang phát triển có thu nhập trung bình thuộc nhóm thấp và đối diện với những thách thức lớn phải vượt qua về tăng trưởng, phát triển kinh tế - xã hội để không rơi vào “bẫy thu nhập trung bình”. Vấn đề đặt ra là phải tập trung nguồn lực và có giải pháp đột phá để duy trì tốc độ tăng trưởng cao, bền vững, nâng cao chất lượng tăng trưởng, tăng quy mô tổng sản phẩm quốc nội (GDP) và GDP bình quân đầu người, từ đó mới có tiền đề và điều kiện cơ bản để thực hiện một chính sách an sinh xã hội tiếp cận dựa trên quyền theo hướng bao phủ toàn dân được Hiến pháp quy định.

- Thách thức về già hóa dân số. Việt Nam đang ở thời kỳ cơ cấu “dân số vàng”. Đây là một lợi thế rất lớn. Tuy nhiên kể từ năm 2017 khi tỷ lệ người cao tuổi đã chiếm 10% dân số cả nước thì Việt Nam nhanh chóng trở thành một nước có dân số già. Theo đánh giá của Ngân hàng Thế giới (WB), Việt Nam đang bắt đầu trở thành một trong những quốc gia có tốc độ già hóa nhanh nhất thế giới. Nếu năm 2010, cứ 11 người Việt Nam mới có 1 người cao tuổi, thì đến năm 2030 cứ 6 người dân sẽ có 1 người cao tuổi. Như vậy, chỉ sau khoảng 15 năm, dân số Việt Nam sẽ chuyển từ giai đoạn dân số trẻ sang giai đoạn dân số già, trong khi Việt Nam vẫn là một nước chưa giàu (các nước trên thế giới phải trải qua nhiều thập niên, thậm chí hàng thế kỷ mới diễn ra bước chuyển này). Dân số già nhanh sẽ gây sức ép rất lớn đối với chính sách an sinh xã hội khi số đối tượng cần bảo đảm an sinh xã hội tăng lên nhanh chóng.

- Thách thức về tác động của biến đổi khí hậu. Biến đổi khí hậu, nhất là xu hướng ấm lên của khí hậu toàn cầu và nước biển dâng, sẽ dẫn đến gia tăng tần suất và mức độ cực đoan của các hiện tượng thiên nhiên, như hạn hán, lũ lụt, bão, sóng thần,... kéo theo nó là các thảm họa đối với con người, với hoạt động sản xuất... Việt Nam được dự báo là một trong 5 nước bị ảnh hưởng nặng nề nhất của biến đổi khí hậu. Khi nước biển dâng lên 1m sẽ ảnh hưởng tới 12% diện tích, 10,5% dân số Việt Nam, có thể làm ngập mặn 7% diện tích đất nông nghiệp, trong đó 60% - 70% diện tích thuộc đồng bằng sông Cửu Long..., kéo theo đó là nhiều hậu quả nghiêm trọng đối với nông nghiệp, nông dân, nông thôn và đối với cả nước. Chuẩn bị và đối phó với biến đổi khí hậu là một thách thức rất lớn đối với Việt Nam trong phát triển kinh tế - xã hội, nhất là bảo đảm an sinh xã hội.

- Thách thức về hội nhập quốc tế. Hội nhập quốc tế trong xu thế toàn cầu hóa là tất yếu khách quan và cơ hội lớn đối với sự phát triển của Việt Nam. Tuy nhiên, quá trình hội nhập quốc tế cũng tạo ra áp lực cạnh tranh gay gắt trong lĩnh vực nguồn nhân lực, việc làm, thị trường lao động khu vực và thế giới... Trong bối cảnh đó, quá trình di dân, di chuyển lao động và di chuyển thể nhân theo xu hướng từ nông thôn ra thành thị và hướng ra thị trường quốc tế ngày càng diễn ra mạnh mẽ đặt ra nhiều vấn đề trong chính sách bảo đảm an sinh xã hội.

- Thách thức về cải cách thể chế. Chính sách an sinh xã hội phải được hoàn thiện nhằm khắc phục các bất hợp lý hiện nay. Đồng bộ hóa với các luật liên quan khác và nội luật hóa các cam kết quốc tế khi tham gia Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA), Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP),... là một áp lực rất lớn đặt ra trong cải cách thể chế, thiết kế chính sách an sinh xã hội theo hướng đổi mới giai đoạn 2021 - 2030.

- Thách thức về sự mất cân đối giữa nhu cầu và khả năng đáp ứng của hệ thống dịch vụ. Cùng với quá trình đa dạng hóa an sinh xã hội, tăng độ bao phủ an sinh xã hội ở Việt Nam cũng sẽ là quá trình gia tăng nhu cầu cung cấp dịch vụ công về an sinh xã hội. Trong khi chất lượng đòi hỏi ngày càng cao thì khả năng đáp ứng của hệ thống dịch vụ này còn hạn chế ngay cả trong giai đoạn 2021  - 2030.

Phát triển và hoàn thiện hệ thống an sinh xã hội trong mối quan hệ gắn kết chặt chẽ, cân bằng với phát triển và hoàn thiện hệ thống chăm sóc xã hội_Ảnh: TTXVN

Định hướng chiến lược phát triển

Về định hướng mục tiêu:

Thứ nhất, phát triển và hoàn thiện hệ thống an sinh xã hội tiếp cận dựa trên quyền theo hướng phổ quát trên cơ sở mở rộng đối tượng được bảo đảm an sinh xã hội; có lộ trình tiến tới bao phủ toàn dân, trước hết là trẻ em dưới 6 tuổi, người già từ 70 tuổi trở lên, người khuyết tật, đồng bào dân tộc thiểu số thuộc nhóm có nguy cơ bị diệt vong và người dân có mức sống dưới chuẩn mức sống tối thiểu của quốc gia.

Thứ hai, nâng cao chất lượng bảo đảm an sinh xã hội thông qua các chính sách an sinh xã hội đa tầng, toàn diện, có sự chia sẻ và phát triển hệ thống cung cấp dịch vụ an sinh xã hội để người dân dễ tiếp cận và hưởng lợi.

Thứ ba, phát triển bền vững và cân đối các quỹ an sinh xã hội trong dài hạn, nhất là cân đối thu - chi quỹ bảo hiểm hưu trí và tử tuất, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm y tế, các quỹ xã hội khác...

Thứ tư, đạt được sự hài lòng của người dân về một hệ thống chính sách an sinh xã hội thân thiện với người dân và hiệu quả, có khả năng phòng ngừa, hạn chế và khắc phục các rủi ro xã hội.

Về định hướng nội dung:

Một là, xây dựng chuẩn an sinh xã hội phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước giai đoạn 2021 - 2030 và tiếp cận các chuẩn mực quốc tế. Theo đó, thống nhất quy định chuẩn mức sống tối thiểu quốc gia giai đoạn 2021 - 2030 làm cơ sở xây dựng chính sách, chế độ bảo đảm an sinh xã hội và mọi người dân có mức sống dưới mức này đều được hưởng lợi (mức chuẩn trợ cấp xã hội thấp nhất tiến tới bằng mức chuẩn này); xây dựng mức chuẩn lương hưu xã hội thống nhất bằng hoặc cao hơn chuẩn mức sống tối thiểu quốc gia; xây dựng mức chuẩn chế độ ưu đãi xã hội cao hơn chuẩn mức sống tối thiểu quốc gia để bảo đảm đối tượng người có công với cách mạng có mức sống trên mức trung bình của xã hội; xây dựng sàn an sinh xã hội làm chuẩn bảo đảm an sinh xã hội cho người dân về tiếp cận đa chiều hưởng thụ các dịch vụ xã hội cơ bản (giáo dục, y tế, nước sạch sinh hoạt, nhà ở, văn hóa, thông tin...).

Hai là, tiếp tục phát triển và hoàn thiện hệ thống an sinh xã hội đa tầng, linh hoạt và có khả năng hỗ trợ, chia sẻ lẫn nhau. Theo đó, thiết lập mối gắn kết trong chính sách và chương trình bảo đảm an sinh xã hội cho người dân theo vòng đời của một con người. Mỗi độ tuổi có chính sách bảo đảm an sinh xã hội phù hợp, trong đó xác định rõ trách nhiệm đầu tư của Nhà nước, của người dân và cộng đồng; tiếp tục phát triển và hoàn thiện hệ thống an sinh xã hội đa tầng, linh hoạt, có sự chia sẻ và theo hướng bao phủ toàn dân.

Ba là, phát triển và hoàn thiện hệ thống an sinh xã hội trong mối quan hệ gắn kết chặt chẽ, cân bằng với phát triển và hoàn thiện hệ thống chăm sóc xã hội, đáp ứng nhu cầu cung cấp dịch vụ ngày càng tăng của người dân. Theo đó, sắp xếp các cơ sở chăm sóc xã hội công lập theo hướng có trọng điểm, hiện đại, chất lượng và hiệu quả; phát triển mạnh các cơ sở chăm sóc xã hội ngoài công lập và dựa vào cộng đồng (các cơ sở, trung tâm, chăm sóc xã hội, nhà xã hội, gia đình...); phát triển nhanh nghề công tác xã hội theo hướng chuyên môn hóa, chuyên nghiệp, chất lượng và hiệu quả.

Bốn là, cơ cấu lại nguồn lực bảo đảm an sinh xã hội theo hướng: Tăng đầu tư của Nhà nước cho chính sách, chương trình bảo đảm an sinh xã hội với quan điểm đầu tư cho an sinh xã hội là đầu tư cho phát triển và giữ vai trò nòng cốt; cơ cấu lại các thông số đóng - hưởng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp bảo đảm quỹ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp cân đối vững chắc trong dài hạn (về mức đóng, mức hưởng, thời gian đóng, công thức tính lương hưu, tuổi nghỉ hưu, chi phí quản lý, đầu tư phát triển quỹ...); phát triển mở rộng các quỹ an sinh xã hội (quỹ “đền ơn đáp nghĩa”, quỹ tình thương, quỹ hỗ trợ khẩn cấp...) với sự đóng góp của doanh nghiệp, tổ chức, người dân, cộng đồng và sự hỗ trợ quốc tế theo quy định của pháp luật.

Năm là, đổi mới và nâng cao năng lực lãnh đạo, quản lý lĩnh vực an sinh xã hội. Theo đó, tiếp tục đổi mới tư duy, nhận thức, quan điểm của Đảng, Nhà nước về phát triển hệ thống an sinh xã hội tiếp cập theo quyền trên cơ sở tổng kết lý luận, thực tiễn và kinh nghiệm quốc tế để hình thành hệ thống quan điểm, định hướng mới về an sinh xã hội cho giai đoạn 2021 - 2030, tầm nhìn xa hơn phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội Việt Nam và các chuẩn mực quốc tế trong hội nhập; thống nhất quản lý nhà nước đối với lĩnh vực an sinh xã hội vào một đầu mối; tăng cường sự phối hợp trong hệ thống quản lý nhà nước liên quan đến an sinh xã hội; phân cấp mạnh cho địa phương, cơ sở; phát huy vai trò của các tổ chức xã hội và sử dụng hiệu quả cơ chế thị trường trong bảo đảm an sinh xã hội; nâng cao chất lượng nguồn nhân lực quản lý nhà nước đối với lĩnh vực an sinh xã hội theo hướng tinh giảm, có thể lực tốt, tri thức cao, có kỹ năng quản lý giỏi, có hành vi và ý thức chính trị, xã hội tốt; phát triển mạnh nhân viên công tác xã hội theo hướng chuyên môn hóa và chuyên nghiệp theo nhu cầu của xã hội; tách bạch chức năng, nhiệm vụ quản lý nhà nước lĩnh vực an sinh xã hội của cơ quan hành chính nhà nước và đơn vị sự nghiệp công lập cung cấp dịch vụ, thực hiện chính sách bảo đảm an sinh xã hội để tránh trùng chéo, lẫn lộn chức năng, nhiệm vụ hoặc xu hướng công chức hóa, hành chính hóa các đơn vị sự nghiệp này; tiếp tục hiện đại hóa quản lý nhà nước đối với lĩnh vực an sinh xã hội trên cơ sở áp dụng công nghệ cao, xây dựng chính phủ /chính quyền điện tử, gắn mã số an sinh xã hội...

Một số giải pháp thời gian tới

Thứ nhất, tiếp tục thể chế hóa chủ trương, quan điểm mới của Đảng về an sinh xã hội thành cơ chế, chính sách, pháp luật, tạo hành lang pháp lý vận hành, hoạt động hiệu lực, hiệu quả hệ thống an sinh xã hội giai đoạn 2021 - 2030.

Trên cơ sở rà soát, đánh giá hệ thống chính sách, pháp luật an sinh xã hội hiện hành theo tiêu chí và chuẩn mực quốc tế về tiếp cận an sinh xã hội dựa trên quyền, cũng như nhận thức, quan điểm mới của Đảng về an sinh xã hội thể hiện trong các nghị quyết của Đảng để bổ sung, sửa đổi các luật về an sinh xã hội hiện hành (Bộ luật Lao động, Luật Việc làm, Luật Bảo hiểm xã hội, Luật Người cao tuổi, Luật Người khuyết tật...); tiếp tục nội luật hóa các công ước, cam kết quốc tế liên quan đến an sinh xã hội trong quá trình bổ sung, sửa đổi các luật về an sinh xã hội hiện hành; nghiên cứu xây dựng và ban hành một số luật mới về an sinh xã hội, như Luật Công tác xã hội, Luật Trợ giúp xã hội,... để hình thành đồng bộ, đầy đủ hệ thống luật pháp về an sinh xã hội (như là Bộ luật An sinh xã hội).

Thứ hai, huy động các nguồn lực cho bảo đảm an sinh xã hội, như tăng đầu tư của Nhà nước theo kế hoạch năm, trung hạn và dài hạn với mức đầu tư 1% - 1,5% GDP/năm; đẩy mạnh huy động nguồn lực của doanh nghiệp, sự đóng góp của người dân, hỗ trợ quốc tế bảo đảm mức 30% so với tổng mức đầu tư từ ngân sách nhà nước cho an sinh xã hội; phát triển các quỹ an sinh xã hội bền vững trong dài hạn, nhất là quỹ bảo hiểm xã hội, quỹ đền ơn đáp nghĩa, quỹ tình thương, quỹ trợ giúp xã hội đột xuất...; đổi mới quản lý và sử dụng các nguồn lực để bảo đảm đúng mục tiêu, đối tượng và hiệu quả.

Thứ ba, hình thành chương trình tổng thể về an sinh xã hội. Chương trình này trên cơ sở tích hợp Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững; Chương trình mục tiêu giáo dục nghề nghiệp, việc làm và an toàn lao động; các đề án trợ giúp xã hội hiện nay (Đề án Chăm sóc trẻ em mồ côi không nơi nương tựa, trẻ em bị bỏ rơi, trẻ em nhiễm HIV/AIDS, trẻ em là nạn nhân của chất độc hóa học, trẻ em khuyết tật nặng và trẻ em bị ảnh hưởng bởi thiên tai, thảm họa dựa vào cộng đồng giai đoạn 2013 - 2020; Đề án Trợ giúp xã hội và phục hồi chức năng cho người tâm thần, người rối nhiễu tâm trí dựa vào cộng đồng giai đoạn 2011 - 2020; Đề án Trợ giúp người khuyết tật giai đoạn 2012 - 2020; Đề án Phát triển nghề công tác xã hội giai đoạn 2010 - 2020.

Thứ tư, phát triển và nâng cao chất lượng hoạt động hệ thống cung cấp dịch vụ an sinh xã hội, như dịch vụ việc làm, dịch vụ chăm sóc đối tượng bảo trợ xã hội, dịch vụ chi trả, dịch vụ công tác xã hội,... phát triển theo hướng chuyên nghiệp và tự chủ; coi trọng chăm sóc đối tượng tại cộng đồng và mở rộng khu vực ngoài nhà nước (các tổ chức xã hội, tổ chức phi chính phủ, doanh nghiệp,...) tham gia trên cơ sở vận dụng cơ chế thị trường theo quy định của pháp luật, sự ủy thác, đặt hàng của Nhà nước gắn liền với bảo đảm và nâng cao tính định hướng xã hội chủ nghĩa.

Thứ năm, đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả, chất lượng hội nhập và hợp tác quốc tế về an sinh xã hội; tiếp tục tham gia xây dựng các công ước và tiêu chuẩn quốc tế của Liên hợp quốc, Tổ chức Lao động quốc tế (ILO), Quỹ Nhi đồng Liên hợp quốc (UNICEF), các hiệp định hợp tác đa phương và song phương thế hệ mới liên quan đến an sinh xã hội...; chủ động, tích cực và có trách nhiệm thực hiện các cam kết quốc tế về an sinh xã hội; chủ động phản ứng chính sách đối với những tác động không mong muốn trong quá trình hội nhập quốc tế để hạn chế rủi ro cho người dân; tranh thủ sự hỗ trợ quốc tế về kỹ thuật, đào tạo cán bộ và tài chính,... để tăng thêm nguồn lực cùng Nhà nước bảo đảm an sinh xã hội cho người dân./.