TCCS - Công tác tham mưu của các cơ quan đảng trung ương trên lĩnh vực kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng là một bộ phận quan trọng của công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng, có vai trò quan trọng trong công tác xây dựng Đảng, có đóng góp to lớn cho việc nâng cao năng lực lãnh đạo và cầm quyền của Đảng. Qua gần 40 năm đổi mới, công tác này đã đạt được một số thành tựu, góp phần vào xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong sạch, vững mạnh, vào thành công chung của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, cần tiếp tục được phát huy trong thời gian tới.

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng dự Lễ kỷ niệm 70 năm Ngày truyền thống ngành kiểm tra đảng (16-10-1948 - 16-10-2018), năm 2018 _Ảnh: TTXVN

Từ khi ra đời đến nay, trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta không ngừng quan tâm, chăm lo đến công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, coi đó là nhân tố quan trọng hàng đầu quyết định mọi thắng lợi của sự nghiệp cách mạng. Một trong những nội dung quan trọng góp phần tạo thành sức mạnh, năng lực, uy tín của Đảng, củng cố và giữ vững niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng là hiệu lực, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng. Văn kiện Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh: “Tiếp tục tạo chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức, trách nhiệm và quyết tâm chính trị của toàn Đảng đối với công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng”(1).

1. Nội dung công tác tham mưu của các cơ quan đảng trung ương trên lĩnh vực kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng bao gồm: (i) Tham mưu ban hành, sửa đổi, bổ sung chủ trương, chiến lược, chính sách, quy định, các văn bản như chương trình, đề án, kế hoạch… trên lĩnh vực kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng; (ii) Tham mưu lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng; (iii) Tham mưu tổ chức thực hiện chủ trương, chính sách, quy định, các văn bản trên lĩnh vực kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng; (iv) Tham mưu phương án, biện pháp giải quyết các vấn đề, vụ việc cụ thể trên các lĩnh vực kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng; (v) Tham mưu phát hiện, xử lý vi phạm của tổ chức đảng, đảng viên; (vi) Tham mưu tổng kết, đánh giá thực tiễn và nghiên cứu, đổi mới công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng về tổ chức bộ máy, nhân sự, phương pháp công tác, quy trình, nghiệp vụ.

Các yếu tố cơ bản tác động đến công tác tham mưu của các cơ quan đảng trung ương trên lĩnh vực kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng gồm có: (i) Việc lãnh đạo, chỉ đạo của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đối với công tác tham mưu của các cơ quan đảng trung ương trên lĩnh vực kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng; (ii) Nhận thức của lãnh đạo các cơ quan đảng trung ương và đội ngũ cán bộ làm công tác tham mưu; (iii) Hệ thống quy định, hướng dẫn liên quan đến công tác tham mưu của các cơ quan đảng trung ương trên lĩnh vực kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng; (iv) Tổ chức bộ máy thực hiện công tác tham mưu của các cơ quan đảng trung ương và mối quan hệ phối hợp giữa các cơ quan, tổ chức; (v) Chất lượng cán bộ thực hiện công tác tham mưu của các cơ quan đảng trung ương; (vi) Cơ sở vật chất, tài chính, mức độ ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động của các cơ quan đảng trung ương.

2. Qua gần 40 năm đổi mới, công tác tham mưu của các cơ quan đảng trung ương trên lĩnh vực kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng đã đạt được các kết quả nổi bật:

Một là, tham mưu ban hành, sửa đổi, bổ sung chủ trương, chiến lược, chính sách, quy định, các văn bản như chương trình, đề án, kế hoạch… trên lĩnh vực kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng ngày càng có chất lượng và trọng tâm.

Các cơ quan đảng trung ương đã tham mưu cho Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư ban hành gần 80 văn bản quan trọng về công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng, một số nghị quyết, quy định, quyết định, kết luận; nhiều văn bản hết sức quan trọng đã tác động sâu rộng đến toàn bộ hoạt động công tác kiểm tra, giám sát và công tác xây dựng Đảng(2). Ban Bí thư cũng ban hành 20 quy chế phối hợp trong công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng giữa Ủy ban Kiểm tra Trung ương với 20 tổ chức đảng có liên quan ở Trung ương(3) trong giai đoạn từ năm 1986 đến năm 2010; 50 văn bản liên quan đến công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng; trực tiếp ban hành 76 văn bản liên quan đến công tác lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng trong giai đoạn từ năm 2011 đến nay.

Công tác tham mưu xây dựng, ban hành văn bản cũng đã từng bước được đổi mới, nâng cao chất lượng, bảo đảm tính khoa học, đồng bộ, toàn diện, có trọng tâm, trọng điểm, có tính dự báo cao và bám sát thực tiễn phát triển, hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng của đất nước. Đến nay, các văn bản được bổ sung, sửa đổi có nhiều đổi mới quan trọng, khắc phục cơ bản những hạn chế, vướng mắc khi triển khai thực hiện công tác kiểm tra, giám sát trong nhiệm kỳ Đại hội XII của Đảng. Nội dung các văn bản mang tính hệ thống, kịp thời, toàn diện, khả thi...; trong đó, có những nội dung mang tầm chiến lược, đột phá, bao quát các phương diện, lĩnh vực trong đời sống xã hội, mang tính dự báo cao, có ý nghĩa định hướng dài hạn cho công tác kiểm tra, giám sát; có những quy định cụ thể đối với những vấn đề cần xử lý trong thực tiễn.

Ủy ban Kiểm tra Trung ương cũng đã trực tiếp tham mưu xây dựng và ban hành các hướng dẫn, quy trình triển khai thực hiện nghiệp vụ kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng(4) bảo đảm công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng được thực hiện một cách thống nhất, hiệu quả, kịp thời từ Trung ương đến cơ sở; tham mưu xây dựng các chương trình, kế hoạch kiểm tra, giám sát có trọng tâm, trọng điểm, tập trung vào các lĩnh vực thường xảy ra vi phạm.

Hai là, tham mưu, giúp Trung ương tổ chức thực hiện việc kiểm tra, giám sát ngày càng hiệu quả, chuyên nghiệp hơn; phát hiện, xem xét xử lý trách nhiệm, thi hành kỷ luật đối với nhiều tổ chức đảng hoặc đảng viên vi phạm thuộc thẩm quyền quản lý của Trung ương.

Trên cơ sở các quy định được hoàn thiện, kế hoạch có trọng tâm, trọng điểm, các cơ quan đảng trung ương đã tham mưu tập trung kiểm tra tổ chức đảng và đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm, lựa chọn đối tượng, lĩnh vực, địa bàn dễ phát sinh tiêu cực, tham nhũng, những vấn đề bức xúc mà cán bộ, đảng viên và nhân dân quan tâm để kiểm tra, giám sát. Ủy ban Kiểm tra Trung ương đã tập trung kiểm tra các tổ chức đảng, đảng viên liên quan đến các vụ án, vụ việc thuộc diện Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực theo dõi, chỉ đạo, tiến hành kiểm tra, làm rõ, kết luận nhiều vi phạm nghiêm trọng, quyết định kỷ luật, đề nghị kỷ luật nghiêm minh các tổ chức đảng, đảng viên vi phạm, trong đó có cả những cán bộ cao cấp của Đảng, Nhà nước, lực lượng vũ trang, lãnh đạo chủ chốt các bộ, ngành, địa phương, cả đương chức và nghỉ hưu, khắc phục tư tưởng “hạ cánh an toàn” trong cán bộ, đảng viên(5).

Ba là, tham mưu tổng kết, đánh giá thực tiễn và đổi mới công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng về quan điểm, phương pháp, quy trình, nghiệp vụ kiểm tra, giám sát.

Các cơ quan đảng trung ương đã tham mưu, giúp Ban Bí thư định kỳ sơ kết, tổng kết thực hiện công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng của toàn Đảng để rút kinh nghiệm và đề ra biện pháp thực hiện khả thi trong thời gian tiếp theo; qua đó, kịp thời sửa đổi, bổ sung những quy định không còn phù hợp, ban hành những quy định còn thiếu; chỉ đạo, phối hợp với Quốc hội, Chính phủ sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành mới những chính sách, pháp luật theo thẩm quyền cho phù hợp với tình hình thực tế. Định kỳ đã chủ động tham mưu báo cáo với Ban Chấp hành Trung ương về việc thực hiện công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng.

Các cơ quan đảng trung ương tập trung tham mưu đổi mới công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng, như tham mưu đổi mới về nội dung, phương thức kiểm tra, giám sát; tham mưu đổi mới quy trình thực hiện công tác kiểm tra, giám sát nhằm tạo sự thống nhất, đồng bộ trong tổ chức thực hiện, phù hợp với thực tiễn. Bên cạnh việc xử lý nghiêm minh các tổ chức đảng, đảng viên có vi phạm, việc tham mưu tổ chức thực hiện còn được đổi mới với quan điểm phát huy yếu tố “xây”, bảo vệ cán bộ dám đấu tranh với tham nhũng, tiêu cực, kịp thời phát hiện nhân tố mới, tích cực để phát huy, bảo vệ cái đúng, bảo vệ người tốt, cán bộ dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đột phá vì lợi ích chung.

Bốn là, tham mưu bảo đảm các yếu tố cần thiết về tổ chức bộ máy, nhân sự, tài chính, cơ sở vật chất cho công tác tham mưu.

Các cơ quan đảng trung ương đã tham mưu cho Trung ương trong việc thường xuyên kiện toàn tổ chức bộ máy cho phù hợp, tăng cường đủ số lượng, bảo đảm chất lượng cán bộ làm công tác kiểm tra, giám sát và cơ sở vật chất, điều kiện, phương tiện làm việc để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ được giao trong từng giai đoạn. Tham mưu tăng cường sự phối hợp chặt chẽ, hiệu quả giữa các cơ quan đảng trung ương với Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội trong việc phát hiện, xử lý và công khai kết quả xử lý tổ chức đảng, đảng viên vi phạm. Tham mưu đổi mới công tác đánh giá, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, luân chuyển, bổ nhiệm, sử dụng và chính sách cán bộ để nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ kiểm tra, giám sát. Tham mưu đầu tư, hiện đại hóa cơ sở vật chất - kỹ thuật, phương tiện làm việc phục vụ cho công tác kiểm tra, giám sát.

Nhìn chung, các cơ quan đảng trung ương đã thực hiện tốt việc tham mưu, giúp Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư về công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng. Đã bám sát nội dung lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật của Trung ương để chủ động tham mưu sát, đúng, phù hợp với tình hình thực tiễn, góp phần quan trọng trong thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị được giao. Việc tham mưu ngày càng có trọng tâm, trọng điểm, hướng tới việc đổi mới công tác kiểm tra, giám sát theo hướng không chỉ tập trung vào phát hiện, xử lý các hành vi vi phạm, mà còn tập trung tham mưu phát hiện sơ hở trong chính sách, quy định, phòng ngừa từ sớm, loại bỏ nguyên nhân, nguồn gốc của vi phạm, bảo vệ cán bộ dám nghĩ, dám làm.

Công tác tham mưu được các cơ quan đảng trung ương tiến hành tương đối toàn diện trên các nội dung và phát huy được tương đối đầy đủ vai trò, ý nghĩa đối với công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng, góp phần xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh; trên cơ sở đó, kịp thời nhắc nhở, cảnh tỉnh, chấn chỉnh, ngăn chặn những hành vi vi phạm chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, sự thiếu gương mẫu của tổ chức đảng, đảng viên; đồng thời, kiên quyết xử lý những tổ chức, cá nhân cố tình vi phạm, bảo đảm kỷ luật, kỷ cương của Đảng, theo phương châm “không có vùng cấm, không có ngoại lệ”. Đặc biệt là giai đoạn từ năm 2016 đến nay, công tác tham mưu đã giúp phát hiện, xử lý hàng loạt các vi phạm, trong đó có nhiều vi phạm nghiêm trọng của cán bộ, đảng viên giữ các trọng trách, vị trí quan trọng; có tính răn đe cao và tạo dựng, củng cố được uy tín, niềm tin trong nhân dân.

Công tác tham mưu của các cơ quan đảng trung ương thời gian gần đây được tiến hành ngày càng chủ động với phương pháp đúng đắn, khoa học, đi trước một bước, toàn diện, công khai, dân chủ, thận trọng và chặt chẽ theo quan điểm lấy phòng ngừa, “xây” là chính; bảo đảm kịp thời ngăn ngừa vi phạm, giữ gìn kỷ luật, kỷ cương của Đảng, quy trình khoa học, thuận tiện, dễ hiểu, dễ vận dụng hơn, phương pháp linh hoạt.

Tuy nhiên, bên cạnh những ưu điểm nổi bật trên, công tác tham mưu về kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng còn có một số hạn chế, vướng mắc, như:

- Phương pháp, hình thức tham mưu có lúc, có nơi chưa bảo đảm khoa học, chặt chẽ; việc chuẩn bị đôi khi chưa đáp ứng yêu cầu, thiếu kịp thời. Chậm tham mưu ban hành hoặc cụ thể hóa các nghị quyết, chỉ thị, quy định, quy chế; hoặc chất lượng tham mưu còn hạn chế, thiếu đồng bộ, gây khó khăn cho việc triển khai thực hiện trong thực tế, có những đề án trình Bộ Chính trị xem xét phải thực hiện nhiều lần. Việc tham mưu xây dựng chương trình, kế hoạch kiểm tra chậm, lúng túng, thiếu trọng tâm, trọng điểm ở một số thời điểm, công việc khó, phức tạp; việc giúp Bộ Chính trị, Ban Bí thư làm báo cáo kiểm tra và theo dõi, phúc tra sau kiểm tra còn hạn chế.

Phương pháp tham mưu còn chưa phù hợp, nên việc kiểm tra, giám sát đôi khi còn chưa được đồng đều, chưa bảo đảm tính khách quan, chưa tạo ra được sự thống nhất, thông suốt giữa các cơ quan và từ Trung ương xuống địa phương.

- Việc tham mưu phát hiện, xử lý vi phạm còn có những hạn chế, nhất là giai đoạn 1986 - 2016 chưa phát hiện và kiểm tra kịp thời các vụ vi phạm nghiêm trọng trong Đảng, thiếu trọng tâm, trọng điểm; công tác kiểm tra, giám sát chưa đi vào nền nếp, thiếu đổi mới, sâu sát, khiến cho tình hình vi phạm của đảng viên và tổ chức đảng diễn ra tinh vi, phức tạp, bỏ lọt nhiều tổ chức, cá nhân, chưa có tính răn đe. Các phương pháp kiểm tra, giám sát chưa đủ khả năng để kiểm tra, kết luận, làm rõ khuyết điểm, vi phạm của tổ chức đảng và đảng viên để có căn cứ, cơ sở xử lý chuẩn xác, kịp thời, nghiêm minh.

Việc tham mưu cho công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng trong lĩnh vực tổ chức cán bộ có trường hợp còn lỏng lẻo, dẫn tới việc có nơi cán bộ có nhiều vi phạm nhưng không được phát hiện kịp thời, vẫn được đề bạt, bổ nhiệm, khen thưởng, giao giữ các trọng trách. Khi vi phạm được phát hiện, xử lý vụ việc thì đã ở mức độ nghiêm trọng, gây ảnh hưởng đến uy tín của Đảng và Nhà nước; tham mưu các hình thức xử lý đôi khi còn thiếu phù hợp, có sự nể nang, né tránh.

- Một số cơ quan đảng trung ương qua thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát chưa tham mưu đề xuất được nhiều với Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Quốc hội, Chính phủ trong việc sửa đổi, bổ sung hoàn chỉnh nghị quyết, chỉ thị của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; ít chú trọng thực hiện sơ kết, tổng kết việc thực hiện công tác kiểm tra, giám sát thuộc trách nhiệm của mình; chưa đề xuất được nhiều với Trung ương trong việc đổi mới phương pháp, nghiệp vụ công tác kiểm tra, giám sát và sửa đổi, bổ sung hay ban hành mới các nghị quyết, chỉ thị, quy định về công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng.

- Việc phối hợp giữa các các cơ quan đảng trung ương trong công tác kiểm tra, giám sát có lúc, có việc còn chậm, hiệu quả không cao nên có những việc “nổi cộm”, những vụ án lớn liên quan đến nhiều cán bộ, đảng viên, chưa được phối hợp để phát hiện, xử lý kịp thời; một số nhiệm vụ còn bị động khi được Bộ Chính trị, Ban Bí thư giao tham mưu, đề xuất.

- Việc tham mưu cho Bộ Chính trị, Ban Bí thư trong việc bảo đảm các yếu tố cần thiết cho công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng đôi khi chưa đáp ứng yêu cầu; tham mưu bổ nhiệm, đề bạt, bố trí cán bộ làm công tác kiểm tra, giám sát hoặc xem xét, xử lý trách nhiệm, thi hành kỷ luật, khen thưởng trong một số trường hợp chưa chủ động, chất lượng chưa cao; số lượng và chất lượng nhân sự làm công tác kiểm tra, giám sát chưa thực sự tương xứng với chức năng, nhiệm vụ được giao; việc tham mưu ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác chuyên môn, nghiệp vụ chưa kịp thời, cơ sở vật chất, phương tiện, điều kiện làm việc còn có những hạn chế nhất định.

Ban Bí thư Trung ương Đảng tổ chức Hội nghị toàn quốc tổng kết công tác kiểm tra, giám sát của Đảng năm 2023, triển khai nhiệm vụ năm 2024 _Nguồn: vietnamplus.vn

3. Những năm tới, tình hình thế giới và khu vực diễn biến nhanh chóng, phức tạp, khó lường, phát sinh nhiều vấn đề mới, khó dự báo, chưa có tiền lệ:

- Bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế sâu rộng, cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và các mối đe dọa, thách thức an ninh truyền thống, an ninh phi truyền thống tác động đan xen, chuyển hóa lẫn nhau, tạo ra cả thời cơ và thách thức mới.

- Trong điều kiện Đảng cầm quyền, bên cạnh thuận lợi là cơ bản cũng nảy sinh nhiều nguy cơ, như một số cán bộ, đảng viên chủ quan, tự mãn, kiêu ngạo, quan liêu, xa dân, độc đoán, chuyên quyền, đặc quyền đặc lợi, dẫn đến tha hóa, biến chất; ảnh hưởng bởi những quan điểm, khuynh hướng sai lệch hoặc bị các phần tử xấu mua chuộc, lôi kéo xa rời mục tiêu, lý tưởng của Đảng, có hành động chống lại Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.

- Thế và lực, sức mạnh tổng hợp của đất nước tăng lên, uy tín quốc tế của đất nước ngày càng được nâng cao. Tuy nhiên, bốn nguy cơ được Đảng ta đã chỉ ra vẫn tồn tại, đặc biệt là nguy cơ “diễn biến hòa bình” của thế lực thù địch nhằm chống phá nước ta; tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong một bộ phận cán bộ, đảng viên và tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí diễn biến phức tạp; đối tượng vi phạm tìm mọi cách để đối phó, che giấu vi phạm, tài sản đã chiếm dụng, ý thức tổ chức kỷ luật lỏng lẻo, thiếu gương mẫu, dẫn đến xa rời quần chúng, gây ảnh hưởng đến uy tín, năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng.

- Một bộ phận cán bộ tham mưu, nhất là cấp tham mưu chiến lược trong các cơ quan công quyền bị tha hóa, cấu kết với các doanh nghiệp, với phần tử xấu, lợi dụng “kẽ hở” của pháp luật, “chạy” cơ chế, chính sách có lợi cho doanh nghiệp để trục lợi, gây thiệt hại cho lợi ích của Nhà nước và đại bộ phận nhân dân. Xuất hiện những nội dung vi phạm mới trong một số lĩnh vực hoạt động của đời sống, nhất là vi phạm về thiếu trách nhiệm, cố ý làm trái, ban hành quyết định trái quyết định của cấp trên; nhiều vi phạm có biểu hiện “lợi ích nhóm”, “lợi ích cục bộ” một cách tinh vi, có tổ chức, cấu kết với các tổ chức, cá nhân nước ngoài.

4. Để công tác tham mưu của các cơ quan đảng trung ương được tiến hành toàn diện, đồng bộ trên các nội dung và phát huy được vai trò, thời gian tới cần thực hiện một số giải pháp sau:

Thứ nhất, nâng cao nhận thức của cấp ủy, tổ chức đảng, ủy ban kiểm tra, trước hết là người đứng đầu về vị trí, vai trò, mục đích, tác dụng của công tác tham mưu về công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng. Tăng cường sự chỉ đạo, tạo điều kiện của Trung ương đối với công tác tham mưu về kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng. Nghiên cứu, phổ biến, quán triệt, tổ chức thực hiện nghiêm túc các quy định, quy chế, hướng dẫn của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư về tham mưu trong lĩnh vực kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền để tạo sự thống nhất cao trong nhận thức và hành động về vị trí, vai trò, tầm quan trọng của công tác tham mưu trong lĩnh vực kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng.

Thứ hai, hoàn thiện các quy định của Đảng về cơ chế, chính sách đối với công tác tham mưu của các cơ quan đảng trung ương trong lĩnh vực kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng để có cơ sở, căn cứ thực hiện hiệu quả hơn. Có cơ chế, quy định bảo đảm dân chủ, công khai, minh bạch trong hoạt động tham mưu để cán bộ phát huy dân chủ trong thảo luận, tranh luận các vấn đề đang đặt ra, đề đạt nguyện vọng và ý kiến cá nhân với quan điểm và chính kiến rõ ràng, được đối thoại dân chủ với các cấp lãnh đạo, được lắng nghe và thấu hiểu, được động viên, cổ vũ. Tạo lập cơ chế cho các tổ chức đảng có liên quan tham gia phản biện khoa học đối với các vấn đề về chủ trương, chính sách, các đề án để thu thập thêm các ý tưởng sáng tạo, phát triển mới để tham mưu ngày càng đúng, sát, trúng, hiệu quả hơn.

Thứ ba, có cơ chế và chỉ đạo sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan đảng trung ương với các cơ quan nghiên cứu, các học viện, các trường đại học, các chuyên gia, các đồng chí lãnh đạo, quản lý của Đảng, Nhà nước... đương chức và đã nghỉ hưu trong việc nghiên cứu, tham mưu các vấn đề về công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng; trong nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, nghiên cứu cơ bản về công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng.

Thứ tư, kiện toàn tổ chức bộ máy và đội ngũ cán bộ tham mưu tương xứng, ngang tầm, đủ số lượng, bảo đảm chất lượng, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ được giao. Bổ sung thẩm quyền tương xứng nhiệm vụ được giao, kiện toàn cơ cấu tổ chức, chủ động làm tốt công tác tự chỉnh đốn, tự kiểm tra, tự giám sát để xây dựng, bảo vệ và giữ gìn sự liêm chính của đội ngũ cán bộ làm công tác tham mưu; chủ động cử cán bộ đi đào tạo, bồi dưỡng theo yêu cầu nhiệm vụ được giao. Kịp thời ngăn ngừa vi phạm và sàng lọc, kiên quyết loại bỏ khỏi đội ngũ những cá nhân không còn xứng đáng.

Quan tâm xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác tham mưu chiến lược đủ số lượng, bảo đảm chất lượng và chuyên nghiệp, tương xứng, ngang tầm. Có chế độ, chính sách hợp lý đối với đội ngũ cán bộ làm công tác tham mưu của Đảng để động viên, nâng cao chất lượng, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ của giai đoạn cách mạng mới. Chú trọng bồi dưỡng chuyên sâu về kỹ năng tham mưu văn bản; kỹ năng, quy trình tham mưu, xây dựng đề án, nhất là đối với số cán bộ, công chức trực tiếp làm công tác nghiên cứu, tham mưu ban hành văn bản. Tổ chức cho cán bộ làm công tác tham mưu chiến lược của Đảng, cả Trung ương và cấp ủy trực thuộc Trung ương đi nghiên cứu, học tập, trao đổi kinh nghiệm theo chuyên đề chuyên sâu ở nước ngoài để có thêm kiến thức, kinh nghiệm.  

Thứ năm, tăng cường tài chính, cơ sở vật chất, điều kiện làm việc bảo đảm cho công tác tham mưu có chất lượng, hiệu quả. Cần bảo đảm cho những cán bộ làm công tác tham mưu có đầy đủ thông tin, cơ sở dữ liệu để tham mưu, đề xuất đúng. Cần hoàn thiện hệ thống dữ liệu trên cơ sở ứng dụng công nghệ thông tin, nhưng phải bảo đảm tính bảo mật để đáp ứng yêu cầu tham mưu kịp thời, chính xác. Tiếp tục hoàn thiện số liệu thống kê cơ bản về công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng, số hóa tài liệu lưu trữ, xây dựng cơ sở dữ liệu điện tử để thuận tiện cho việc lưu trữ, phục vụ khai thác, nghiên cứu.

Cần nâng kinh phí cấp cho đề án trình Trung ương nhằm bảo đảm chất lượng, hiệu quả quá trình tham mưu xây dựng, ban hành các văn bản, nhất là quá trình tổ chức thực hiện nghiên cứu, khảo sát, tổng kết thực tiễn; tổ chức các hội nghị, hội thảo, tọa đàm, xin ý kiến các ban, bộ, ngành, các địa phương, các chuyên gia, nhà khoa học.         

Có chế độ đãi ngộ thỏa đáng đối với các cán bộ làm công tác tham mưu chiến lược ở Trung ương (về phụ cấp, chế độ thông tin, cung cấp tài liệu tham khảo, nghiên cứu, học tập trao đổi kinh nghiệm trong và ngoài nước...). Có cơ chế khen thưởng đặc biệt đối với những cán bộ tham mưu có những đóng góp tạo sự thúc đẩy mang tính đột phá trong công tác xây dựng Đảng và phát triển kinh tế - xã hội; những cán bộ tham mưu chiến lược có thành tích, cống hiến xuất sắc trong công tác tham mưu của Đảng, Nhà nước nói chung, trong công tác tham mưu về công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng nói riêng.

Xây dựng, ban hành “Chiến lược tổng thể về công tác tham mưu của Đảng ở cấp trung ương”, trong đó có nội dung chiến lược tham mưu về công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng để có căn cứ, cơ sở, điều kiện, lộ trình thực hiện chủ động, sát hợp. Trên cơ sở đó nghiên cứu, ban hành “Quy chế dân chủ trong công tác tham mưu của Đảng”, trong đó có công tác tham mưu về công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng để có cơ sở phát huy dân chủ trong việc tham mưu xây dựng các đề án, báo cáo trên cơ sở thu hút được sự tham gia của tổ chức đảng, các tổ chức trong hệ thống chính trị, của cán bộ, đảng viên và nhân dân để nâng cao chất lượng và tính khả thi (trừ những đề án, dự án thuộc về bí mật của Đảng, của quốc gia). Có quy định về cung cấp thông tin cho cán bộ tham mưu các ban đảng trung ương để bảo đảm việc nghiên cứu, tham khảo phục vụ tốt công tác tham mưu. Quy định về chế độ nghiên cứu, học tập, trao đổi kinh nghiệm về công tác tham mưu giữa Trung ương với địa phương, giữa các cơ quan đảng với cơ quan nhà nước và ở nước ngoài. Quy định về việc bồi dưỡng nghiệp vụ công tác tham mưu cho cán bộ làm công tác tham mưu của Đảng. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ số trong công tác tham mưu của các cơ quan đảng trung ương.../.

------------------

* Tác giả là Chủ nhiệm Đề tài KHBĐ (2022 - 2024)-03 tổng kết về công tác tham mưu của các cơ quan đảng trung ương trên lĩnh vực kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng qua gần 40 năm đổi mới

(1) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. II, tr. 245 - 246
(2) Nghị quyết số 04-NQ/TW, ngày 12-9-1987, “Về cuộc vận động làm trong sạch và nâng cao sức chiến đấu của tổ chức đảng và bộ máy nhà nước, làm lành mạnh các quan hệ xã hội”; Chỉ thị số 27-CT/TW, ngày 4-2-1988, “Về chính sách xử lý đối với đảng viên phạm sai lầm”; Chỉ thị số 29-CT/TW, ngày 14-2-1998, “Về tăng cường công tác kiểm tra của Đảng”; Nghị quyết số 14-NQ/TW, ngày 30-8-2007, “Về tăng cường công tác kiểm tra, giám sát của Đảng”; Kết luận số 72-KL/TW, ngày 17-5-2010, “Về Chiến lược công tác kiểm tra, giám sát của Đảng đến năm 2020”; Quyết định số 68-QĐ/TW, ngày 21-3-2012, về “Ban hành Quy chế giám sát trong Đảng”; Hướng dẫn số 02-HD/TW, ngày 8-6-2012, “Về thực hiện việc chất vấn trong Đảng tại các kỳ họp Ban Chấp hành Trung ương”,...
(3) Quy chế phối hợp giữa Ủy ban Kiểm tra Trung ương đối với các ban đảng: Văn phòng Trung ương Đảng, Ban Tổ chức Trung ương, Ban Tuyên giáo Trung ương, Ban Đối ngoại Trung ương; Đảng ủy Công an Trung ương, Quân ủy Trung ương; Đảng ủy Khối các cơ quan Trung ương, Đảng ủy Khối doanh nghiệp Trung ương, Báo Nhân Dân; Ban Chỉ đạo phòng, chống tham nhũng; các ban cán sự đảng Chính phủ, Thanh tra Chính phủ, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính, Bộ Nội vụ, Ủy ban quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp; các đảng đoàn Quốc hội, Kiểm toán Nhà nước, Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
(4) Quy trình kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật đảng, giải quyết tố cáo, khiếu nại kỷ luật đảng của cấp ủy tỉnh và tương đương đến cơ sở, ban hành theo Quyết định số 89-QĐ/TW, ngày 1-12-2022. Quy trình thực hiện kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật đảng của ủy ban kiểm tra các cấp, ban hành tại Quyết định số 354-QĐ/UBKTTW, ngày 22-12-2021. Các hướng dẫn Quyết định số 37-QĐ/TW, ngày 25-10-2021; Quyết định số 69-QĐ/TW, ngày 6-7-2022, Quyết định số 22-QĐ/TW, ngày 28-7-2021; Quyết định số 56-QĐ/TW, ngày 8-2-2022...
(5) Kết quả này được đặc biệt ghi nhận trong những năm gần đây, từ ngày 1-7-2012 đến ngày 31-3-2022, đã tham mưu cho Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư… thi hành kỷ luật hơn 170 cán bộ diện Trung ương quản lý, trong đó có 33 đồng chí là Ủy viên Trung ương Đảng, nguyên Ủy viên Trung ương Đảng, hơn 50 sĩ quan cấp tướng trong lực lượng vũ trang. Từ sau Đại hội XIII đến năm 2023, đã thi hành kỷ luật 91 cán bộ diện Trung ương quản lý, trong đó có 17 Ủy viên Trung ương Đảng, nguyên Ủy viên Trung ương Đảng, 23 sĩ quan cấp tướng trong lực lượng vũ trang. Có những việc xảy ra từ lâu, có những việc mới, việc khó, thuộc các lĩnh vực có chuyên môn sâu, tính chất phức tạp, nhạy cảm đã được tham mưu giải quyết kịp thời.