Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, giai cấp công nhân Việt Nam đã đi tiên phong trong cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, liên minh đoàn kết chặt chẽ với nông dân, trí thức và các tầng lớp nhân dân lao động yêu nước làm nên thắng lợi của Cách mạng Tháng tám năm 1945, chiến thắng Điện Biên Phủ lừng lẫy địa cầu và Đại thắng mùa xuân 1975 vĩ đại, quét sạch kẻ thù xâm lược, đế quốc thực dân, dành thống nhất, độc lập Tổ quốc, tự do hòa bình cho Dân tộc. Đánh giá về giai cấp công nhân Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: Chỉ có giai cấp công nhân là dũng cảm nhất, cách mạng nhất, luôn luôn gan góc đương đầu với bọn đế quốc thực dân.

Trung thành với chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, trong công cuộc xây dựng, phát triển và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa hiện nay, Đảng và Nhà nước ta luôn khẳng định quan điểm nhất quán về vai trò tiền phong lãnh đạo của giai cấp công nhân Việt Nam, người đại diện cho phương thức sản xuất tiên tiến nhất, là lực lượng lao động làm ra nhiều của cải vật chất nhất cho xã hội. Thực hiện đường lối đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, công cuộc xây dựng và phát triển đất nước ta đã thu được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Tốc độ tăng trưởng quốc nội (GDP) liên tục đạt trên 7% năm, môi trường đầu tư được cải thiện, nguồn vốn đầu tư nước ngoài tăng lên hàng năm (năm 2007 ước đạt trên 16 tỷ USD), cơ cấu kinh tế xã hội chuyển dịch theo hướng hiện đại, trong đó công nghiệp, dịch vụ ngày càng chiếm tỷ trọng cao. Vị thế của nước ta trên trường quốc tế ngày càng được nâng lên. Với việc gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới đầu năm 2007, nền kinh tế nước ta đã thực sự hội nhập đầy đủ, toàn diện với kinh tế thế giới. Đó là những tiền đề, điều kiện thuận lợi to lớn cho sự phát triển của giai cấp công nhân Việt Nam.

Với đội ngũ gần 8 triệu người (7,7 triệu), chiếm khoảng 9,3% dân cư và 1/4 lực lượng lao động toàn xã hội, song hằng năm công nhân Việt Nam đã sản xuất ra khối lượng sản phẩm chiếm hơn 50% tổng sản phẩm quốc nội, bảo đảm trên 60% ngân sách nhà nước. Giai cấp công nhân có mặt ở mọi thành phần kinh tế, từ doanh nghiệp nhà nước, tập thể, đến doanh nghiệp tư nhân và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Trình độ kỹ thuật - tay nghề, trình độ văn hóa của công nhân trong những năm qua được nâng lên rõ rệt do sự phát triển của giáo dục, dạy nghề và yêu cầu ngày càng cao về chuyên môn kỹ thuật của nền sản xuất công nghiệp hiện đại. Trong cả nước, mỗi năm có hơn một triệu lao động được bổ sung vào đội ngũ công nhân. Nhìn chung, đời sống mọi mặt của công nhân, chủ yếu là công nhân các doanh nghiệp nhà nước, công nhân các khu vực lao động ngành nghề truyền thống đã được cải thiện đáng kể.

Tuy nhiên, trong sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước, khi chúng ta đang xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nhiều thành phần kinh tế cùng tồn tại, phát triển và được bảo vệ, điều này dẫn đến sự biến đổi về cơ cấu xã hội, sự phân tầng ngay trong nội bộ giai cấp công nhân với những lợi ích khác nhau, và cùng với đó là mặt trái của kinh tế thị trường đang hàng ngày, hàng giờ tác động vào cuộc sống vật chất và tinh thần của nhân dân nói chung và giai cấp công nhân nói riêng. Trong khi đó, thế giới đang chuyển biến mạnh mẽ dưới tác động của cách mạng khoa học và công nghệ, của xu hướng toàn cầu hóa, sự phụ thuộc lẫn nhau trong cộng đồng quốc tế về kinh tế, chính trị, sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế tri thức thúc đẩy nhanh quá trình trí thức hóa lao động công nghiệp, dịch vụ. Những xu thế đó đã tác động mạnh mẽ đến quá trình hình thành và phát triển, mở ra những thuận lợi, cơ hội mới và cũng đặt ra những khó khăn, thách thức mới cho giai cấp công nhân hiện đại ở Việt Nam.

Trong điều kiện đó, nhiều vấn đề nảy sinh mâu thuẫn trong thực tế cuộc sống của lực lượng công nhân nước ta, đó là:

- Một bộ phận công nhân mà chủ yếu là lực lượng công nhân mới (những học sinh mới rời trường phổ thông, con em nông dân và các tầng lớp nhân dân khác mới tham gia vào đội ngũ công nhân), còn hạn chế về nhận thức, nhất là nhận thức về chính trị, xã hội, về trách nhiệm công dân, lòng yêu nước, tự hào, tự tôn dân tộc, về ý thức trách nhiệm và kỷ luật lao động.

- Một số lượng lớn công nhân hiện nay ít được đào tạo về tay nghề nên chỉ làm được những công việc giản đơn, không đòi hỏi tính sáng tạo, cùng với đó là tính chuyên nghiệp, ý thức tự giác, kỷ luật còn thấp. Theo số liệu điều tra về trình độ học vấn, tay nghề của công nhân hiện nay, có đến gần 3% số người lao động chưa biết chữ; 12% chưa tốt nghiệp tiểu học; 74% chưa qua đào tạo nghề một cách chuyên nghiệp...

- Đời sống văn hóa tinh thần của công nhân chưa cao, một bộ phận đáng kể có tâm lý quá coi trọng vật chất, tiền bạc, coi nhẹ những giá trị khác. Thậm chí có tư tưởng sùng bái chủ nghĩa tư bản, tâm lý làm thuê, coi trọng tiền bạc hơn quyền làm chủ...

- Quyền sở hữu của người lao động, đặc biệt là ở các doanh nghiệp nhà nước sau cổ phần hóa chưa được coi trọng và bảo vệ thích đáng. Cùng với đó là việc làm và quyền làm việc của một bộ phận công nhân chưa được bảo đảm.

- Một bộ phận công nhân, nhất là công nhân ở các khu công nghiệp, khu chế xuất không được bảo đảm về điều kiện làm việc; tiền lương thấp, không đủ bảo đảm đời sống vật chất và tái sản xuất sức lao động; gần một nửa số công nhân chưa được hưởng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế; đời sống văn hóa tinh thần của công nhân nói chung chưa được cải thiện đáng kể; nhiều công nhân các khu công nghiệp mới còn phải sống tạm bợ, chật chội trong các phòng trọ, không bảo đảm các tiện nghi tối thiểu, không có các đảm bảo về chăm sóc y tế giáo dục cho con cái... Tình trạng đình công, bãi công ngày càng tăng, chưa có biện pháp khắc phục triệt để, gây ra những ảnh hưởng tiêu cự về dư luận xã hội và trật tự trị an nói chung.

Cũng cần nhấn mạnh là những khó khăn, phức tạp trên chủ yếu xuất hiện trong bộ phận công nhân mới ở các khu công nghiệp, khu chế xuất, trong các doanh nghiệp liên doanh hoặc 100% vốn nước ngoài. Tuy nhiên, đây lại chính là khu vực mà nhu cầu về lao động công nghiệp tăng nhanh nhất, lực lượng công nhân phát triển năng động nhất, nhanh nhất với những yêu cầu chuyên môn, kỹ thuật nghề nghiệp sinh động, mới mẻ nhất.

Những vấn đề đang đặt ra gắn bó chặt chẽ và xuất phát từ yêu cầu giải quyết những vấn đề thực tế trong đời sống lực lượng công nhân, cũng như đáp ứng yêu cầu cấp bách trong việc phát triển lực lượng công nhân lao động công nghiệp, dịch vụ, phục vụ kịp thời cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Tuy nhiên, nhìn về bản chất, vấn đề xây dựng và phát triển giai cấp công nhân còn có ý nghĩa quan trọng hơn thế. Đó là xây dựng, phát triển cơ sở xã hội của Đảng Cộng sản Việt Nam, xây dựng, phát triển nguồn động lực về mọi mặt của Đảng, tạo nên chỗ dựa vững chắc nhất, sự ủng hộ xã hội mạnh mẽ nhất của Đảng. Bởi vậy, xây dựng và phát triển giai cấp công nhân cũng chính là phát triển, hoàn thiện chủ thể của sứ mệnh lịch sử cách mạng xã hội chủ nghĩa hiện đại ở nước ta - cơ sở xã hội quyết định nhất bảo đảm cho sự lãnh đạo của Đảng, cho việc xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc vì mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội và thực hiện thành công mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.

Cuốn sách Xây dựng và phát triển giai cấp công nhân Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế - Thực tiễn vùng mỏ Quảng Ninh” do tập thể tác giả: PGS, TS Tạ Ngọc Tấn, Nguyễn Duy Hưng và Đoàn Văn Kiển đồng chủ biên là kết quả của cuộc Hội thảo “Xây dựng và phát triển giai cấp công nhân Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế - Thực tiễn vùng mỏ Quảng Ninh” do Bộ Biên tập Tạp chí Cộng sản phối hợp với Tỉnh ủy Quảng Ninh và Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam tổ chức tháng 12 năm 2007.
 
Cuốn sách gồm 4 phần:
 
- Phần 1: Lý luận chung về giai cấp công nhân
- Phần 2: Giai cấp công nhân hiện nay - một số vấn đề đặt ra
- Phần 3: Công nhân vùng Mỏ Quảng Ninh - góc nhìn từ thực tiễn
- Phần 4: Xây dựng giai cấp công nhân vì sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa