Quan hệ Việt Nam - Liên bang Nga trong khung cảnh hợp tác Nga - ASEAN

Nguyễn Thị Mai Hoa TS, Trung tâm Đào tạo, Bồi dưỡng giảng viên lý luận chính trị, Đại học Quốc gia Hà Nội
18:55, ngày 31-05-2013
TCCSĐT - Trong chính sách ngoại giao “hướng Đông” của Nga, khu vực Đông Nam Á, trong đó có Việt Nam, trở thành một tâm điểm quan trọng. Trong khung cảnh hợp tác Nga - ASEAN ngày càng sôi động, quan hệ đối tác chiến lược Việt Nam - Liên bang Nga đứng trước nhiều thuận lợi và thách thức để ngày một gắn kết chặt chẽ, thực chất và hiệu quả hơn.

Khởi sắc hợp tác Nga - ASEAN

Bước sang thế kỷ XXI, với hàng loạt ưu thế, Đông Nam Á đang trở thành trung tâm của nhiều quá trình hội nhập trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương, là điểm đến hấp dẫn của nhiều nước lớn, như Mỹ, Nga, Trung Quốc, Ấn Độ, Nhật Bản,... 

Sau giấc “ngủ đông” dài, nước Nga đang nhanh chóng phục hồi, từng bước vững chắc khôi phục lại vị thế cường quốc, hướng mạnh về Đông Nam Á - “vùng đệm” quan trọng trong chiến lược kiềm chế, lan tỏa ảnh hưởng giữa các nước lớn ở châu Á - Thái Bình Dương. Với nguồn năng lượng lớn nhất thế giới và khoa học - kỹ thuật quân sự phát triển, Liên bang Nga có nhiều điều kiện cũng như ưu thế để ghi dấu sự hiện diện của mình ở Đông Nam Á. 

Mặc dù sự hợp tác Nga - ASEAN được khởi động từ cuối những năm 90 của thế kỷ XX, nhưng năm 2004 mới là điểm mốc thực sự đánh dấu sự trở lại của nước Nga ở khu vực qua sự kiện chính thức tham gia Hiệp ước hợp tác hữu nghị ASEAN. Sau hai hội nghị thượng đỉnh Nga - ASEAN (tại Cu-a-la Lăm-pơ, năm 2005; tại Hà Nội, năm 2010), nước Nga góp mặt vào hầu hết các hoạt động chính trị, đối thoại an ninh và các hợp tác trong khuôn khổ ASEAN, chú trọng thảo luận những vấn đề về thiết lập trật tự thế giới đa cực, về kiến trúc an ninh khu vực, an ninh năng lượng, an ninh môi trường…. Bắt đầu hướng mạnh đến Đông Nam Á từ lĩnh vực chính trị - ngoại giao, Liên bang Nga tập trung phát triển những lĩnh vực hợp tác trọng điểm, đáp ứng nhu cầu cấp thiết của các nước khối ASEAN về an ninh - quốc phòng và năng lượng.

Hợp tác năng lượng là điểm sáng của toàn bộ tiến trình hợp tác Nga - ASEAN giai đoạn 2005 - 2015 trên hai hướng chính: 1- Cung cấp nhiên liệu cho các nước ASEAN; 2- Hợp tác khai thác dầu mỏ, khí đốt, than đá và chuyển giao công nghệ phát triển năng lượng hạt nhân, năng lượng điện… 

Là nước vừa xuất khẩu, vừa nhập khẩu dầu mỏ (xuất siêu), với những phân tích kinh tế nhạy bén, Liên bang Nga đã nắm bắt đúng “yết hầu” kinh tế của các nước ASEAN - năng lượng là yếu tố vô cùng quan trọng quyết định sự tăng trưởng kinh tế. Trong “Chiến lược năng lượng của Liên bang Nga đến năm 2030”, năng lượng xuất khẩu sang ASEAN vào năm 2030 sẽ chiếm khoảng 26-27% tổng xuất khẩu năng lượng của nước Nga(1). Hợp tác năng lượng được ví như “động cơ chuyển dịch quan hệ Nga - ASEAN từ “điểm chết” đến quan hệ đối tác chiến lược”(2). Ngoài việc tích cực nhập khẩu dầu mỏ - tài nguyên sẵn có từ nước Nga, nhiều khả năng các nước ASEAN sẽ tìm đến giải pháp năng lượng hạt nhân và năng lượng nhiệt, thủy điện - những lĩnh vực đầy tiềm năng hợp tác với nước Nga.

Một lĩnh vực hợp tác ghi đậm dấu ấn, nhiều thành công và đầy hứa hẹn của Liên bang Nga với ASEAN là hợp tác kỹ thuật - quân sự. Trên nền tảng giá thành hợp lý và các điều kiện hợp đồng linh hoạt, Liên bang Nga đẩy mạnh ký kết hợp đồng mua bán vũ khí, khí tài với nhóm nước đối tác truyền thống (Việt Nam, Ma-lai-xi-a, In-đô-nê-xi-a), nhóm nước đối tác giàu tiềm năng (Bru-nây, Mi-an-ma, Thái Lan) và thúc đẩy hợp tác với nhóm nước triển vọng (Xin-ga-po, Băng-la-đét, Phi-líp-pin). Ở thời điểm hiện tại, “vũ khí Nga là mặt hàng “nóng” trên các thị trường Đông Nam Á”(3). 

Điểm đặc biệt trong hợp tác Nga - ASEAN là lĩnh vực vận tải hàng không, chinh phục vũ trụ. Năm 2010, Liên bang Nga ký ba hợp đồng cung cấp máy bay cho In-đô-nê-xi-a, Ma-lai-xi-a, Lào với tổng trị giá hơn 4 tỷ USD(4). Nga đã có các hợp đồng phóng vệ tinh viễn thám, vệ tinh viễn thông vào vũ trụ với In-đô-nê-xi-a (Tiung SAT-1, 2000; MEASAT-3, 2006), đào tạo cán bộ kỹ thuật ngành vũ trụ với Việt Nam; đưa các nhà du hành lên vũ trụ với Ma-lai-xi-a (năm 2006)…

Trong hợp tác kinh tế - thương mại Nga - ASEAN, tuy có sự khởi sắc, song còn khá khiêm tốn. Năm 2010, thương mại của Nga với ASEAN đã có bước tăng đáng kể, đạt 12,5 tỷ USD (chiếm 1,8 tổng kim ngạch xuất khẩu của Nga(5)) so với năm 2009 là 6,8 tỷ USD(6) (không vượt quá 0,5% thương mại của các nước thành viên(7), dù trong khoảng thời gian này, Nga là nước xuất khẩu đứng thứ 7 trên thế giới). Nếu so sánh với xuất khẩu thương mại vào ASEAN trong cùng năm của Trung Quốc là 178 tỷ USD(8), thì thương mại Nga - ASEAN quả là còn nhỏ bé.

Dòng vốn đầu tư trực tiếp của Nga tại khu vực Đông Nam Á những năm 2007 - 2009, chỉ đạt 270,6 triệu USD(9), tương đương 0,2% toàn bộ FDI của Nga ở nước ngoài(10). Trong phần lớn những “sân chơi” của các nước ASEAN, các doanh nghiệp Nga mới chỉ là những đấu thủ non trẻ. Hợp tác kinh tế - thương mại, vì thế, vẫn là mảnh đất màu mỡ cho quan hệ Nga - ASEAN phát triển mạnh mẽ.

Quan hệ đối tác chiến lược toàn diện Việt Nam - Liên bang Nga

Yêu cầu củng cố, làm sâu sắc thêm quan hệ hợp tác chiến lược, đối tác tin cậy với Việt Nam thể hiện trong Sắc lệnh "Về các biện pháp thực hiện chính sách đối ngoại" do Tổng thống V.Pu-tin ký trong ngày tuyên thệ nhậm chức (7-5-2012). Trong chuyến thăm Liên bang Nga của Chủ tịch nước Trương Tấn Sang (tháng 7-2012), quan hệ đối tác chiến lược được hai nước nhất trí nâng lên tầm đối tác chiến lược toàn diện. 

Việt Nam và Liên bang Nga thành lập Nhóm công tác cấp cao nhằm xúc tiến các dự án chung ưu tiên, được thông qua tại khóa họp thứ XV Ủy ban liên Chính phủ về hợp tác kinh tế - thương mại và khoa học - kỹ thuật Việt Nam - Liên bang Nga, diễn ra cuối năm 2012 tại Mát-xcơ-va, góp phần để thực hiện mục tiêu đưa kim ngạch trao đổi hàng hóa song phương đạt 7 tỷ USD vào năm 2015.
Giống các nước ASEAN khác, hợp tác năng lượng Việt Nam - Liên bang Nga là một trong những lĩnh vực hợp tác “xương sống”. Liên doanh dầu khí Vietsovpetro (thành lập năm 1980) trở thành biểu tượng hữu nghị giữa hai đất nước không chỉ bởi sự tồn tại lâu đời của nó, mà còn bởi hiệu quả kinh tế: trong hơn 30 năm hoạt động, liên doanh dầu khí Vietsovpetro khai thác gần 200 triệu tấn dầu mỏ, chiếm gần 60% tổng sản lượng dầu mỏ, gần 100% tổng sản lượng khí đốt do Việt Nam khai thác, trở thành lá cờ đầu của ngành công nghiệp dầu khí Việt Nam, lọt vào Top 10 công ty khai thác dầu khí hiệu quả cao nhất thế giới(11), hằng năm đóng góp cho ngân sách Liên bang Nga 8 tỷ USD(12). 

Với sự khởi đầu tốt đẹp và thực tiễn hoạt động thành công, Việt Nam và Liên bang Nga mở rộng hợp tác thăm dò, khai thác dầu khí tại Việt Nam và Liên bang Nga, tiến tới các nước thứ ba. Tại Việt Nam, bên cạnh Gazprom và Zarubezhneft, các tập đoàn dầu khí hàng đầu của Nga, như Lukoil và TNK-BP đã bắt đầu triển khai các dự án dầu khí tại thềm lục địa. Tại Nga, Liên doanh Rusvietpetro đã đón dòng dầu đầu tiên ở mỏ bắc Khosedaiu (tháng 9-2010); mỏ Visovoi (tháng 7-2011); mỏ tây Khosedaiu (tháng 7-2012). Năm 2012, sản lượng khai thác của Rusvietpetro tăng lên hơn 2 triệu tấn và sẽ đạt mức 5 - 5,5 triệu tấn/năm vào năm 2018(13). 

Hợp tác trên lĩnh vực điện hạt nhân là bước đột phá lớn với việc hai nước ký Hiệp định liên Chính phủ về xây dựng nhà máy điện hạt nhân đầu tiên tại Việt Nam (tháng 10-2010). Trong chuyến thăm Liên bang Nga của Chủ tịch nước Trương Tấn Sang (tháng 7-2012), phía Nga hứa sẽ cung cấp cho Việt Nam 10 tỷ USD tín dụng, trong đó “khoảng 8 tỷ đô-la tín dụng sẽ được chi cho công trình xây dựng nhà máy điện hạt nhân tại Việt Nam”(14).

Quan hệ hợp tác đan xen và thúc đẩy Việt Nam - Liên bang Nga - ASEAN: Thuận lợi và thách thức

Việt Nam là quốc gia có quan hệ hữu nghị truyền thống lâu đời với Nga, có vai trò ngày càng cao trong khối ASEAN, có vị trí địa - chính trị, địa - kinh tế quan trọng ở Đông Nam Á, trên các tuyến đường hàng hải và hàng không huyết mạch đi qua khu vực Biển Đông. Cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương và tiểu khu vực Đông Nam Á làm tăng vị thế địa - chính trị của Việt Nam. Không phải ngẫu nhiên, trong từng bước trở lại Đông Nam Á, Liên bang Nga xem Việt Nam là một “mắt xích” quan trọng đáp ứng yêu cầu bảo đảm các quyền lợi an ninh, kinh tế, hàng hải có ý nghĩa chiến lược và tăng cường hợp tác với ASEAN, chọn việc đẩy mạnh quan hệ với Việt Nam như một trụ cột quan trọng, coi Việt Nam là một trong những đối tác chiến lược chính. Việt Nam trở thành đòn bẩy trong hợp tác Nga - ASEAN, là chất “xúc tác” trong chính sách lan tỏa ảnh hưởng của Nga tại khu vực. 

Trong năm 2012, kim ngạch trao đổi hàng hóa giữa Việt Nam và Liên bang Nga đã tăng 20% và đạt 3,66 tỷ USD, trong đó, kim ngạch xuất khẩu của Nga sang Việt Nam tăng gần 4%, đạt 1,388 tỷ USD, còn kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Nga tăng 32%, đạt 2,272 tỷ USD.
Về phía Việt Nam, thúc đẩy quan hệ đối tác chiến lược, hợp tác toàn diện với Liên bang Nga là một trong những hướng đối ngoại quan trọng trong chính sách củng cố quan hệ với các bạn bè truyền thống của mình. 

Quan hệ hợp tác Việt Nam - Liên bang Nga vừa có nét tương đồng, vừa có những điểm khác biệt so với quan hệ của Nga với các quốc gia Đông Nam Á khác. Đó là những đặc điểm: 1- Hình thành một hành lang pháp lý thông thoáng cho hai nước xúc tiến mạnh mẽ quan hệ hợp tác cùng có lợi với 60 hiệp định, hiệp ước, văn bản thỏa thuận hợp tác được ký kết trên nhiều lĩnh vực; 2- Cả hai nước đều mong muốn và có biện pháp thúc đẩy quan hệ hợp tác đi vào chiều sâu, thực chất, hiệu quả; 3- Hợp tác an ninh - quốc phòng và năng lượng là những điểm nhấn quan trọng, song hai nước không ngừng mở rộng các lĩnh vực hợp tác khác; 4- Quan hệ hai nước mang tính thực tế cao dựa trên sự nhận thức về vị trí, vai trò của mỗi nước với tư cách là yếu tố tác động và bảo đảm hệ thống lợi ích của từng nước. Như vậy, trong những năm gần đây, quan hệ đối tác chiến lược Việt Nam - Nga trên nền quan hệ Nga - ASEAN ngày càng được mở rộng, đi vào thực chất, mang tính chất mới, trên cơ sở lợi ích của mỗi nước, của khu vực, có giá trị hiện thực và tiềm năng vươn xa./.

------------------------------------------

(1) Энергетическая стратегия России на период до 2030 г.//Министерство энерге- Энергетическая стратегия России на период до 2030 г.// Министерство энерге-г.//Министерство энерге- г.// Министерство энерге-и РФ (утверждена распоряжением Правительства РФ от 13 ноября 2009 г. № 1715-р): офиц. сайт. URL: http://minenergo.gov.ru/activity/energostrategy/

(2) Усов Илья Викторович: “Отношения России и АСЕАН: модернизация – путь к успеху”, Журнал Проблемы национальной стратегии, № 2 (7) 2011, c.59.

(3) Jiang Lin: “Nước Nga hưởng lợi từ các xung đột trên biển Nam Trung Hoa”, http://opinion.huanqiu.com, 7-8-2012.

(4) Усов Илья Викторович: “Отношения России и АСЕАН: модернизация – путь к успеху”, Там же, с.63.

(5) Тезисы выступления заместителя директора Департамента Азии и Африки Н.Н. Стригуновой “О торгово-экономическом и инвестиционном сотрудничестве России и АСЕАН и о проекте «дорожной карты» торгово-экономических связей Россия–АСЕАН”,13-5-2010, с.3. 

(6) ASEAN Trade by Selected PartnerCountry/Region, 2005−2009//ASEAN: offic. site. URL: http://www. aseansec.org/stat/Table19.xls.

(7) ASEAN Trade by Selected PartnerCountry/Region, 2005−2009//ASEAN: offic. site. URL: http://www. aseansec.org/stat/Table19.xls.

(8) Усов Илья Викторович: “Отношения России и АСЕАН: модернизация – путь к успеху”, Там же, с.56.

(9) Foreign Direct Investment Net Inflow to ASEAN from Selected Partner Countries/Regions (as of 15 July 2010) : Table 26// Association of Southeast Asian Nations: offic. URL: http://www.aseansec.org/stat/Table26.pdf/

(10) Платёжный баланс Российской Федерации//Центральный банк Российской Федерации: офиц. сайт. URL: http://www.cbr.ru/statistics/?Prtid=svs.

(11) Đinh Lanh: “Hợp tác dầu khí Việt – Nga đơm hoa, kết trái”, Tin tức - TTXVN, ngày 26-7-2012.

(12) “Зачем России АСЕАН”? Журнал Российская Фередация сегодня, №22, 2010г.

(13) Đinh Lanh: “Hợp tác dầu khí Việt - Nga đơm hoa, kết trái”, TLđd.

(14) “Nga cấp cho Việt Nam khoản tín dụng khoảng 10 tỷ đô-la”, Tiếng nói nước Nga, 27-7-2012.