Nâng cao hiệu quả quản lý doanh nghiệp sau cổ phần hóa ở ngành giao thông vận tải

Nguyễn Duy Ký Công ty Cổ phần Traphaco
12:26, ngày 15-11-2011
TCCS - Cải cách doanh nghiệp nhà nước, với chủ trương cổ phần hóa là hướng đi quan trọng của quá trình sắp xếp lại doanh nghiệp theo Nghị quyết Hội nghị Trung ương 3 và Nghị quyết Hội nghị Trung ương 9 khóa IX. Nhưng, quản lý hiệu quả doanh nghiệp sau cổ phần hóa lại đang là vấn đề đặt ra cấp bách hiện nay. Những năm qua, cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước thuộc Bộ Giao thông - Vận tải chuyển biến tích cực và cơ bản đạt được mục tiêu đề ra; song, việc quản lý để doanh nghiệp phát triển bền vững, đúng hướng còn nhiều khó khăn, bất cập cần tháo gỡ kịp thời.

Kết quả đạt được sau cổ phần hóa

Thực hiện Nghị quyết Trung ương 3 và Nghị quyết Trung ương 9, khóa IX, Bộ Giao thông - Vận tải đã tích cực triển khai thực hiện cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước (CPH DNNN) trực thuộc Bộ. Sau gần 20 năm triển khai thực hiện, qua 3 giai đoạn (từ làm thí điểm, đến mở rộng thí điểm và đẩy mạnh), đến nay, Bộ đã cổ phần hóa đ­­ược 283/311 doanh nghiệp và bộ phận doanh nghiệp; trên một số lĩnh vực chủ yếu, như: xây lắp, công nghiệp cơ khí và dịch vụ tư vấn, vận tải. Nhìn chung, sau cổ phần hóa, 283 doanh nghiệp đã ổn định tổ chức và đi vào sản xuất, kinh doanh tốt hơn.

Về công tác tổ chức, quản lý, điều hành: Nhiều doanh nghiệp (DN) đã có cơ chế thu hút nhân tài ngoài DN tham gia quản lý, điều hành DN mới. Chuyển toàn bộ các tổng công ty, công ty lớn thuộc Bộ sang hoạt động theo mô hình “công ty mẹ - công ty con” (công ty mẹ có thể là công ty nhà nư­­ớc nắm 100% vốn, hoặc công ty cổ phần); chuyển các doanh nghiệp công ích sang công ty cổ phần, nhằm thu hút các nguồn lực và chuyển sang mô hình tổ chức, quản lý mới; thành lập hội đồng quản trị; thuê tổng giám đốc (Tổng Công ty Công nghiệp ô-tô Việt Nam và Công ty Vận tải đa ph­ương thức). Việc ký hợp đồng thuê tổng giám đốc đã tách biệt được chức năng quản lý với chức năng điều hành; Và việc thuê giám đốc điều hành trở thành phương thức tốt để thu hút được người có năng lực, chuyên môn giỏi để lãnh đạo, điều hành doanh nghiệp.

Đối với số lao động dôi dư được giải quyết theo hướng tổ chức lại sản xuất, sắp xếp lại kinh doanh để bố trí lại cho phù hợp; và khi cần thiết giải quyết theo đúng chính sách, tạo điều kiện thuận lợi để họ tự tìm việc khác. Cụ thể: số lao động được bố trí lại việc làm là 57.634 người; số lao động được giải quyết chế độ là­ 13.632 người; tổng số tiền đ­ược giải quyết từ Quỹ Hỗ trợ lao động dôi dư là 550.460.669 đồng (bình quân mỗi lao động dôi dư đ­ược trợ cấp 40.380.037 đồng)(1).

Chuyển đổi những doanh nghiệp mà Nhà nước không cần giữ 100% vốn sang loại hình doanh nghiệp có nhiều chủ sở hữu, để huy động vốn của các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài, nâng cao năng lực tài chính, đổi mới công nghệ, đổi mới phương thức quản lý, nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh và sức cạnh tranh.

Về doanh thu: Đa phần các doanh nghiệp đã tập trung đổi mới công tác quản trị doanh nghiệp, kiểm soát chặt chẽ việc đầu tư kinh phí cho các hạng mục công trình cần thiết. Số doanh nghiệp kinh doanh có lãi, ổn định tài chính và ngày càng tăng như: Tổng Công ty Tư vấn thiết kế giao thông vận tải, Tổng Công ty Xây dựng công trình giao thông 5, Tổng Công ty Quản lý bay Việt Nam, ba tổng công ty trong lĩnh vực cảng hàng không; các công ty thuộc Cục Hàng hải Việt Nam, Tổng cục Đường bộ Việt Nam... So với trước cổ phần hóa, ở thời điểm tháng 11-2010, doanh thu của các DN đều tăng khoảng 23,4%, lợi nhuận sau thuế tăng 49,1%; tỷ suất lợi nhuận sau thuế/doanh thu tăng 31,2%; năng suất lao động tăng 23,5%; tiền lương tăng 21%(2).

Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân cả khách quan và chủ quan, nên vẫn còn một số công ty sản xuất, kinh doanh kém hiệu quả, hệ số nợ cao và không bảo toàn được vốn chủ sở hữu (chủ yếu thuộc lĩnh vực vận tải, xây lắp).

Về tình hình tài chính: Thực hiện quản lý tài chính của DN theo nguyên tắc công khai, minh bạch, khắc phục tình trạng cổ phần hóa khép kín trong nội bộ DN, gắn với phát triển thị trường vốn, thị trường chứng khoán. Khắc phục tình trạng thiếu vốn sau cổ phần hóa, các DN đã áp dụng hình thức giữ nguyên phần vốn nhà nước tại DN, phát hành thêm cổ phiếu thu hút vốn cho phát triển sản xuất, kinh doanh. Do quản lý tốt, biết khai thác các nguồn vốn khác, nên 85,5% số DN khẳng định: kết quả hoạt động tài chính sau cổ phần hóa tốt hơn so với trước khi cổ phần hóa; 8,1% số DN cho rằng tình hình tài chính của họ không thay đổi và chỉ có 6,4% DN cho biết tình hình tài chính tỏ ra kém hiệu quả hơn so với trước cổ phần hóa.

Về đổi mới công nghệ, ứng dụng tiến bộ khoa học - kỹ thuật: Sau cổ phần hóa, việc đổi mới công nghệ, ứng dụng tiến bộ khoa học - kỹ thuật đều được các DN quan tâm đầu tư, đặc biệt là trong lĩnh vực xây dựng cầu đường, công nghiệp đóng tàu, sản xuất, lắp ráp ô-tô... Đến nay, các DN đủ khả năng xây dựng những công trình quy mô lớn, yêu cầu công nghệ cao trong điều kiện thi công phức tạp. Một số DN đã làm chủ công nghệ sản xuất, chế tạo những sản phẩm công nghiệp chất lượng cao, b­ước đầu cạnh tranh đ­ược trên thị trường trong n­ước và nước ngoài. Đặc biệt, đội ngũ cán bộ khoa học và đội ngũ công nhân kỹ thuật của các DN trưởng thành nhanh chóng, đủ khả năng làm chủ  được công nghệ tiên tiến thế giới. Cụ thể là một số DN của Bộ đã tham gia xây dựng công trình lớn tầm cỡ khu vực như: Cầu Mỹ Thuận, cầu Sông Gianh, cầu Sông Hàn, các tuyến quốc lộ 5, đường Bắc Thăng Long - Nội Bài; đóng tàu biển trọng tải 6.500 tấn, toa xe khách 2 tầng chất lượng cao, chế tạo và sản xuất hàng loạt các trạm trộn bê-tông nhựa nóng công xuất 80T/h - 120T/h; đã sản xuất hàng trăm xe ô-tô khách, từ 24 chỗ trở lên, với chất lượng cao, thay thế cho hàng nhập khẩu và từng bước xuất khẩu sang các nước trong khu vực.

Một số giải pháp để doanh nghiệp nhà nước sau cổ phần hóa phát triển bền vững

Lộ trình cổ phần hóa các DN ở Bộ chia làm 3 giai đoạn, vừa làm vừa rút kinh nghiệm cho phù hợp; trong khi chính sách của Nhà nước đối với doanh nghiệp cổ phần hóa nhiều lần thay đổi. Điều đó trực tiếp đặt ra nhiều vấn đề lớn liên quan đến quản lý doanh nghiệp sau cổ phần hóa chưa thật sự đáp ứng yêu cầu, khiến cho DN sau cổ phần hóa gặp không ít khó khăn trong quản lý, điều hành, sản xuất, kinh doanh. Sự bất cập này đã ảnh hưởng không nhỏ tới quá trình phát triển của DN.

Để củng cố, phát huy thành quả của DN sau cổ phần hóa thuộc Bộ Giao thông - Vận tải và tạo điều kiện cho các DN phát triển bền vững, tăng sức cạnh tranh, cần tập trung thực hiện một số giải pháp chủ
yếu sau.

Một là, ban hành khung khổ pháp lý cần thiết để doanh nghiệp nhà nước sau cổ phần hóa hoạt động thuận lợi. Đã đến lúc cần nhanh chóng ban hành Luật Quản lý và Kinh doanh vốn nhà nước tại DN; tiếp tục chỉnh sửa và nếu cần có thể thay Luật Doanh nghiệp nhà nước đã và đang tỏ ra không còn thích hợp. Luật mới này cần quy định các điều khoản về quyền và trách nhiệm của tổ chức quản lý và kinh doanh vốn nhà nước tại DN, quyền và trách nhiệm của cá nhân đại diện phần vốn nhà nước tại DN, cơ chế kiểm tra, kiểm soát của chủ sở hữu nhà nước và cơ chế khuyến khích, cũng như chế tài xử lý vi phạm quy định về quản lý và kinh doanh vốn nhà nước tại DN. Đồng thời, cần hoàn thiện các quy định pháp lý khác liên quan đến quản lý tài chính công, quản lý DN, công chức nhà nước, nhằm tạo ra môi trường pháp lý đồng bộ, nghiêm minh, minh bạch góp phần định hướng quản lý và kinh doanh vốn nhà nước tại DN hiệu quả.

Đặc biệt, cần phát huy vai trò độc lập và chức năng kiểm tra, giám sát của Kiểm toán Nhà nước, thanh tra tài chính công, vai trò giám sát của công luận, của các tổ chức chính trị, chính trị xã hội, các tổ chức nghề nghiệp... đối với việc sử dụng vốn nhà nước tại DN.

Hai là, đổi mới phương thức quản lý vốn nhà nước đầu tư vào doanh nghiệp sau cổ phần hóa. Do giao thông, vận tải là lĩnh vực đầu tư lớn của Nhà nước cả trong hiện tại và tương lai, nên cần thiết thành lập Công ty Quản lý và Kinh doanh vốn nhà nước tại các DN thuộc ngành. Công ty này sẽ thực hiện quản lý, kinh doanh thống nhất, có hiệu quả theo chức năng đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước đầu tư tại DN trong ngành và trực thuộc sự quản lý của Bộ. Công ty chịu trách nhiệm trước Bộ về hiệu quả đồng vốn nhà nước đầu tư vào DN, cử người đại diện tham gia hội đồng quản trị DN theo đúng luật, kiểm soát hoạt động của DN sử dụng vốn nhà nước theo pháp luật và các nguyên tắc thị trường.

Ba là, tăng cường hệ thống kiểm tra, giám sát của Nhà nước đối với doanh nghiệp nhà nước sau cổ phần hóa. Nhà nước cần xây dựng và cho vận hành các cơ chế kiểm soát để các DN phải hoạt động theo các chuẩn mực quốc tế. Cơ chế này bao gồm: áp dụng các tiêu chuẩn kế toán quốc tế (IAS) và thực hiện quản lý danh mục đầu tư của các DN.

Bốn là, xây dựng và hoàn thiện chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp. Để DN phát triển bền vững và luôn có sức cạnh tranh cao, cần đầu tư xây dựng các chiến lược kinh doanh mang bản sắc riêng của từng DN, nhằm phát huy tối đa lợi thế của DN trong kinh doanh. Muốn vậy, Nhà nước cần giải quyết tốt các vấn đề hỗ trợ DN tìm kiếm cơ hội kinh doanh và dự báo nhu cầu thị trường; chủ động điều hành DN hoạch định chiến lược kinh doanh.

Năm là, hoàn thiện cơ cấu tổ chức bộ máy quản trị doanh nghiệp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất, kinh doanh theo hướng: thực hiện phân cấp, phân quyền mạnh hơn trong doanh nghiệp; áp dụng phương pháp quản lý phi tập trung hóa; tổ chức, sắp xếp lại phòng, ban chức năng; tăng cường mối liên kết giữa các đơn vị phòng, ban trong bộ máy quản trị DN; các DN cần chủ động áp dụng mô hình quản lý mới; sửa đổi quy chế làm việc giữa hội đồng quản trị, ban giám đốc và ban kiểm soát.

Sáu là, nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn nhân lực của DN. Để nâng cao hiệu quả nguồn nhân lực của DN, trước hết, cần đổi mới chính sách tuyển dụng nhân lực theo hướng: tuyển chuyên gia có kinh nghiệm, có kiến thức và những kỹ năng cần thiết cho công việc từ bên ngoài; chuyển hẳn sang cơ chế thị trường trong tuyển dụng lao động, kể cả tuyển lao động quản lý. Đồng thời, đổi mới công tác luân chuyển, sắp xếp, bố trí, sử dụng hợp lý nhân lực trong nội bộ các doanh nghiệp. Việc luân chuyển lao động cần theo hướng mở rộng tự do luân chuyển lao động, nhất là lao động kỹ thuật có trình độ cao giữa các bộ phận trong DN. Đối với luân chuyển lao động quốc tế, cần phát triển theo hướng: xuất khẩu lao động và nhập khẩu chuyên gia, lao động kỹ thuật trình độ cao cho DN trong nước; và sử dụng các phương tiện hiện đại trong quản trị nhân sự, tiêu chuẩn hóa các chức danh./.