Hai mươi năm xây dựng và phát triển thành phố Cần Thơ: Hướng đến tầm nhìn và khát vọng phát triển mới

NGUYỄN VĂN HIẾU
Ủy viên dự khuyết Trung ương Đảng, Bí thư Thành ủy Cần Thơ
14:39, ngày 18-02-2024

TCCS - Ngày 1-1-2024 đánh dấu tròn 20 năm Cần Thơ trở thành thành phố trực thuộc Trung ương. Qua 20 năm xây dựng và phát triển, với nhiều thành tựu đạt được về kinh tế, văn hóa, xã hội, bảo đảm quốc phòng - an ninh, thành phố từng bước vươn lên trở thành trung tâm, động lực phát triển vùng đồng bằng sông Cửu Long. Từ những bài học kinh nghiệm rút ra trong 20 năm qua, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân thành phố đang hướng đến tầm nhìn mới, tư duy mới với khát vọng đưa thành phố vươn lên tầm cao mới.

Diện mạo sau 20 năm xây dựng, phát triển

Tại kỳ họp thứ 4, Quốc hội khóa XI đã thông qua và ban hành Nghị quyết số 22/2003/QH11, ngày 26-11-2003, “về việc chia và điều chỉnh địa giới hành chính một số tỉnh”. Theo đó, tỉnh Cần Thơ được chia tách thành tỉnh Hậu Giang và thành phố Cần Thơ trực thuộc Trung ương và từ ngày 1-1-2004, thành phố Cần Thơ chính thức đi vào hoạt động. Với sự quan tâm của Trung ương, Quốc hội, Chính phủ và các bộ, ban, ngành trong việc ban hành, cụ thể hóa việc thực hiện các nghị quyết về xây dựng và phát triển thành phố Cần Thơ(1); sự nỗ lực phấn đấu, tinh thần đoàn kết, nhất trí, quyết tâm khắc phục mọi khó khăn, thách thức của Đảng bộ, chính quyền và nhân dân thành phố; sự ủng hộ nhiệt tình của các tỉnh, thành phố vùng đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) và cả nước, qua 20 năm xây dựng, phát triển, thành phố đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng về kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng - an ninh, xây dựng Đảng và hệ thống chính trị.

Diện mạo thành phố Cần Thơ sau 20 năm xây dựng, phát triển_Nguồn: baochinhphu.vn

Tốc độ tăng trưởng kinh tế của thành phố luôn đạt mức khá cao(2), cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng dịch vụ và công nghiệp là chủ đạo, chất lượng tăng trưởng, năng lực cạnh tranh từng bước được cải thiện. Hằng năm, thành phố Cần Thơ đóng góp khoảng 1,2% GDP cả nước và khoảng 9,5% GRDP của vùng ĐBSCL. Tổng sản phẩm bình quân đầu người (GRDP/người) ngày càng tăng(3); việc huy động các nguồn lực xã hội cho đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội tăng đáng kể(4).

Công tác quy hoạch và phát triển đô thị được thực hiện tốt. Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Quy hoạch thành phố Cần Thơ thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050, hướng tới là đô thị hạt nhân của vùng ĐBSCL. Kết cấu hạ tầng đô thị được cải thiện, tạo điều kiện kết nối mạng lưới đô thị vùng. Thành phố Cần Thơ là một trong các đô thị trọng điểm thực hiện “Đề án phát triển các đô thị Việt Nam ứng phó với biến đổi khí hậu”; thành phố đã nhận “Chứng chỉ ASEAN thành phố tiềm năng để trở thành thành phố bền vững về môi trường lần thứ 3 về không khí sạch”.

Thông qua việc khai thác, phát huy nhiều nguồn lực, thành phố tăng cường đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội (bao gồm hạ tầng các ngành thương mại - dịch vụ, du lịch, khoa học - công nghệ, giáo dục - đào tạo, y tế, văn hóa - thể thao, hạ tầng năng lượng, hạ tầng các khu - cụm công nghiệp), đặc biệt là hệ thống hạ tầng giao thông để trở thành đầu mối quan trọng về giao thông vận tải vùng và liên vận quốc tế, từng bước khẳng định vai trò, vị trí của thành phố trung tâm vùng ĐBSCL.

Văn hóa - xã hội có nhiều tiến bộ, từng bước khẳng định vai trò trung tâm vùng về văn hóa, y tế, giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ; đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân được nâng cao; tỷ lệ hộ nghèo giảm mạnh, ở mức thấp nhất vùng ĐBSCL và thấp hơn mức trung bình cả nước(5); an sinh xã hội được bảo đảm; quan tâm xây dựng người Cần Thơ “Trí tuệ - Năng động - Nhân ái - Hào hiệp - Thanh lịch” để phát huy mạnh mẽ nhân tố con người trong xây dựng, phát triển thành phố.

Công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị luôn được chú trọng, công tác dân tộc, tôn giáo được thực hiện tốt; hoạt động của bộ máy hành chính từng bước được đổi mới theo hướng tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, quốc phòng - an ninh được bảo đảm vững chắc; giữ vững vai trò là địa bàn trọng điểm, có vị trí chiến lược về quốc phòng - an ninh của vùng ĐBSCL và cả nước.

Các mục tiêu, định hướng lớn của Trung ương về xây dựng và phát triển thành phố Cần Thơ trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước được triển khai thực hiện nghiêm túc, đồng bộ với quyết tâm cao của cả hệ thống chính trị, cộng đồng doanh nghiệp và các tầng lớp nhân dân, bước đầu mang lại kết quả khả quan, tạo tiền đề quan trọng để thành phố thể hiện vai trò trung tâm vùng ĐBSCL trên một số lĩnh vực, như công nghiệp, thương mại, dịch vụ, giáo dục - đào tạo, khoa học - công nghệ, y tế, tài chính - ngân hàng, giao thông, thông tin, báo chí...

Nhận diện hạn chế và bài học kinh nghiệm

Tuy nhiên, qua 20 năm xây dựng và phát triển, bên cạnh thành tựu đã đạt được, thành phố Cần Thơ cũng đối diện với những hạn chế, bất cập.

Một trong những vấn đề mà lãnh đạo thành phố qua các thời kỳ luôn trăn trở là sự phát triển của thành phố Cần Thơ tuy có nhiều khởi sắc, nhưng chưa mang tính đột phá, chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế vốn có. Tính hạt nhân, trung tâm và động lực phát triển của thành phố đối với sự phát triển của vùng ĐBSCL chưa rõ nét, đóng góp của thành phố trong GRDP của vùng còn thấp.

Công tác quy hoạch, quản lý quy hoạch, nhất là quy hoạch đô thị thiếu bền vững. Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội của thành phố, nhất là hạ tầng đô thị, chưa đồng bộ; hạ tầng giao thông thiếu tính kết nối, chất lượng chưa cao, một số hạ tầng giao thông quan trọng chưa được sử dụng hết công suất, như Cảng hàng không quốc tế Cần Thơ, Cảng Cái Cui... Đây là “điểm nghẽn” đối với sự phát triển của thành phố và cả vùng ĐBSCL.

Khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo chưa trở thành động lực để nâng cao năng suất lao động, khả năng cạnh tranh của nền kinh tế. Môi trường đầu tư, kinh doanh chưa được cải thiện đáng kể; chưa tạo đột phá để huy động mạnh mẽ các nguồn lực phát triển, thu hút đầu tư nước ngoài còn kém so với một số tỉnh trong vùng ĐBSCL.

Hoạt động liên kết, hợp tác với các địa phương trong vùng có chuyển biến, nhưng nhìn chung, vẫn còn mang tính đơn lẻ, chưa khai thác, phát huy tốt tiềm năng, thế mạnh của từng địa phương; chủ yếu vẫn là những thỏa thuận mà chưa triển khai thành công việc, chương trình, dự án cụ thể, nên chưa mang lại hiệu quả cao.

Tổ chức bộ máy hệ thống chính trị chưa thật tinh gọn; trình độ, năng lực của đội ngũ đảng viên và cán bộ, công chức, viên chức ở một số lĩnh vực còn hạn chế, chưa đảm đương được yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới. Công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng cán bộ, công chức, viên chức từng lúc, từng nơi chưa thật hiệu quả.

Từ thành tựu và hạn chế, bất cập nêu trên, Đảng bộ thành phố rút ra một số bài học kinh nghiệm:

Thứ nhất, phải bám sát sự lãnh đạo, chỉ đạo của Trung ương, Quốc hội, Chính phủ và cụ thể hóa kịp thời, đồng bộ cơ chế, chính sách của Trung ương; có sự phối hợp chặt chẽ, thường xuyên với các ban, bộ, ngành Trung ương, chú trọng liên kết, hợp tác với các địa phương vùng ĐBSCL và cả nước trên cơ sở bám sát tình hình thực tiễn để có sự lãnh đạo, quản lý, điều hành chủ động, linh hoạt, sáng tạo, kịp thời.

Thứ hai, cấp ủy, chính quyền các cấp phát huy truyền thống đoàn kết, kinh nghiệm, thành quả của các nhiệm kỳ trước, chủ động, sáng tạo trong lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện những nhiệm vụ có tính chiến lược, lâu dài. Tập trung kiện toàn tổ chức bộ máy, có giải pháp đột phá để nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, nhất là lãnh đạo chủ chốt các cấp, các ngành ngang tầm nhiệm vụ.

Thứ ba, trong triển khai thực hiện, phải lựa chọn đúng, trúng vấn đề trọng tâm, trọng điểm và tổ chức thực hiện với tinh thần chủ động, đổi mới, sáng tạo, có giải pháp mang tính đột phá với quyết tâm cao để thực hiện thành công mục tiêu, nhiệm vụ đề ra. Kịp thời phát hiện, động viên, nhân rộng mô hình hay, cách làm sáng tạo, hiệu quả của các địa phương, cơ quan, đơn vị, người dân, doanh nghiệp.

Thứ tư, bảo đảm sự thống nhất từ nhận thức đến hành động, kiên định và quyết tâm cao của cả hệ thống chính trị trong thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển; thực hiện nghiêm kỷ luật, kỷ cương, đề cao tính chủ động, sáng tạo và trách nhiệm của người đứng đầu các cấp, các ngành; siết chặt kỷ luật, kỷ cương hành chính, nâng cao tinh thần trách nhiệm của cán bộ, công chức, viên chức trong thực thi công vụ.

Ủy viên dự khuyết Trung ương Đảng, Bí thư Thành ủy Cần Thơ Nguyễn Văn Hiếu kiểm tra các công trình trọng điểm của thành phố_Ảnh: TTXVN

Tầm nhìn và tư duy phát triển mới

Trong giai đoạn phát triển mới, mục tiêu đặt ra cho Đảng bộ, chính quyền và nhân dân thành phố là phải xây dựng và phát triển Cần Thơ thành “thành phố sinh thái, văn minh, hiện đại mang đậm bản sắc văn hóa sông nước vùng đồng bằng sông Cửu Long; là trung tâm của vùng về dịch vụ thương mại, du lịch, logistics, công nghiệp chế biến, nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, giáo dục và đào tạo, y tế chuyên sâu, khoa học công nghệ, văn hóa, thể thao; là đô thị hạt nhân vùng đồng bằng sông Cửu Long; đời sống vật chất và tinh thần của người dân đạt mức cao; tổ chức đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh; quốc phòng, an ninh được bảo đảm vững chắc”(6), chuyển mình phát triển trở thành trung tâm về sản xuất công nghiệp để đẩy mạnh công nghiệp hóa, từ đó tăng tốc đô thị hóa, tạo nền tảng vật chất để từng bước hiện đại hóa thành phố. Trong xu thế tăng cường liên kết vùng, phát triển chuỗi đô thị công nghiệp mới động lực của vùng ĐBSCL hiện đại, thông minh, chủ động thích ứng với biến đổi khí hậu; phát triển các khu kinh tế gắn với các đô thị trọng điểm và các khu công nghiệp, cụm công nghiệp ở khu vực đô thị động lực, thành phố Cần Thơ đứng trước yêu cầu vươn lên trở thành “trung tâm phát triển vùng có dịch vụ thương mại, y tế, giáo dục - đào tạo, khoa học - công nghệ, văn hóa, du lịch, công nghiệp chế biến hiện đại”(7).

Những mục tiêu và yêu cầu đặt ra trong giai đoạn phát triển mới đòi hỏi có sự thống nhất cao trong nhận thức từ Trung ương đến địa phương, từ cộng đồng doanh nghiệp đến người dân về tầm nhìn mới, tư duy mới đối với sự vươn lên của thành phố, phấn đấu đến năm 2045 Cần Thơ thuộc nhóm thành phố phát triển khá ở châu Á. Với tầm nhìn và khát vọng đó, thời gian tới, thành phố sẽ khai thác, phát huy đồng bộ tiềm năng, lợi thế, các nguồn lực phát triển, biến các nguồn lực đó thành động lực để đưa Cần Thơ vươn lên xứng với vai trò trung tâm vùng ĐBSCL. Tư duy phát triển thành phố đến năm 2045 là chuyển từ phát triển theo số lượng sang chất lượng; có giải pháp ứng phó hiệu quả với thiên tai, với các tác động bất lợi của biến đổi khí hậu và phát triển thượng nguồn sông Mê Kông. Chủ động khai thác hiệu quả các nguồn lực tại chỗ, đặc biệt là yếu tố con người... Phát triển kinh tế phải gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội, giảm nghèo bền vững, giải quyết tốt an sinh xã hội, bảo vệ môi trường và xây dựng nông thôn mới; bảo đảm sự gắn kết hữu cơ giữa Cần Thơ với các địa phương trong vùng ĐBSCL, với Thành phố Hồ Chí Minh, vùng Đông Nam Bộ và các tỉnh, thành phố trong cả nước; kịp thời bắt nhịp với các xu thế phát triển mới, tận dụng tối đa thành tựu về kỹ thuật và công nghệ, văn hóa, xã hội và môi trường để phát triển nhanh và bền vững.

Với tầm nhìn đó, thời gian tới, Đảng bộ thành phố tập trung lãnh đạo thực hiện tốt một số nhiệm vụ, giải pháp sau:

Một là, tiếp tục tuyên truyền sâu rộng về yêu cầu, nhiệm vụ phát triển thành phố Cần Thơ, vùng ĐBSCL từ nay đến năm 2045, phát huy sức mạnh tổng hợp của các tầng lớp nhân dân trong việc tổ chức thực hiện các Nghị quyết của Bộ Chính trị, Quốc hội, Chính phủ về xây dựng và phát triển thành phố Cần Thơ, đặc biệt là Nghị quyết số 13-NQ/TW, ngày 2-4-2022, của Bộ Chính trị “Về phương hướng phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng đồng bằng sông Cửu Long đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045”.

Hai là, triển khai thực hiện tốt Quy hoạch thành phố Cần Thơ đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045; thí điểm xây dựng đô thị thông minh và mô hình quản trị đô thị ở một số quận trong giai đoạn 2020 - 2025, nhân rộng ra toàn thành phố sau năm 2025. Phát triển công nghiệp, nông nghiệp theo hướng ứng dụng công nghệ cao thích ứng biến đổi khí hậu và thị trường tiêu thụ; phát triển ngành dịch vụ theo hướng đa dạng, giá trị gia tăng cao; trong đó du lịch trở thành kinh tế mũi nhọn, dịch vụ hỗ trợ cho phát triển công nghiệp và nông nghiệp của thành phố và vùng ĐBSCL.

Ba là, huy động và sử dụng hiệu quả các nguồn vốn đầu tư phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, đặc biệt là hạ tầng giao thông đồng bộ, hiện đại, kết nối nội vùng và liên vùng; tạo cơ sở để thành phố phát huy vai trò trung tâm, động lực phát triển vùng. Hoàn thiện hạ tầng khu công nghiệp, phát triển hạ tầng kinh tế số, công nghệ thông tin, viễn thông, các dạng năng lượng mới, năng lượng tái tạo; thu hút đầu tư, xây dựng các trung tâm logictics hiện đại; phát triển cảng Cái Cui thành cảng biển quốc tế.

Bốn là, xây dựng cơ chế, chính sách đầu tư, tài chính và phân cấp quản lý đặc thù, phù hợp với năng lực của thành phố và có tính tương đồng với các thành phố trực thuộc Trung ương khác trong cả nước. Xây dựng hệ sinh thái khởi nghiệp, tạo điều kiện hình thành doanh nghiệp công nghệ cao, công nghệ thông tin, viễn thông; phát triển mô hình kinh tế tập thể, hợp tác xã ứng dụng công nghệ cao.

Năm là, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao gắn với đẩy mạnh ứng dụng khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo; phát triển mạnh dịch vụ chăm sóc sức khỏe cho người dân thành phố và vùng ĐBSCL. Gắn phát triển kinh tế với phát triển văn hóa và thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội; nâng cao chất lượng đời sống văn hóa của người dân, bảo tồn và phát huy các giá trị di sản văn hóa vật thể, phi vật thể, gắn với phát triển du lịch; xây dựng người Cần Thơ “Trí tuệ - Năng động - Nhân ái - Hào hiệp - Thanh lịch”.

Sáu là, thực hiện tốt công tác bảo vệ môi trường; quản lý, khai thác, sử dụng có hiệu quả các nguồn tài nguyên, nhất là tài nguyên nước; kiểm soát chặt chẽ chất lượng nước thải, rác thải, khí thải tại khu công nghiệp, khu đô thị, khu dân cư; nâng cấp, cải tạo hệ thống xử lý chất thải rắn, chất thải y tế, chất thải độc hại. Phối hợp với các bộ, ngành Trung ương và các địa phương xây dựng thành phố Cần Thơ trở thành trung tâm ứng phó với biến đổi khí hậu của vùng ĐBSCL.

Bảy là, tăng cường liên kết, hợp tác với các tỉnh trong vùng ĐBSCL, thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh, thành phố khác trong cả nước. Chủ động đề xuất các phương án, lĩnh vực hợp tác theo nguyên tắc “tự nguyện, tôn trọng lẫn nhau, đôi bên cùng có lợi” trên cơ sở phát huy vai trò trung tâm vùng của thành phố và tiềm năng, thế mạnh của từng địa phương. Xây dựng trung tâm thu thập và xử lý thông tin hiện đại, ứng dụng công nghệ mới về vùng ĐBSCL, phục vụ mục tiêu phát triển và quản lý vùng.

Tám là, đổi mới phương thức lãnh đạo của cấp ủy, tổ chức đảng; thực hiện hiệu quả các nghị quyết, chỉ thị, kết luận của Trung ương, Thành ủy về công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh; kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, gắn với học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Thực hiện nghiêm túc việc đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy hệ thống chính trị gắn với các nhiệm vụ, giải pháp về xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là đối với cán bộ lãnh đạo, người đứng đầu cấp ủy, tổ chức đảng, cơ quan, đơn vị đủ phẩm chất năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ./.

-----------------

(1) Nghị quyết số 45-NQ/TW, ngày 17-2-2005, của Bộ Chính trị (khóa IX), “Về xây dựng và phát triển thành phố Cần Thơ trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”; Nghị quyết số 59-NQ/TW, ngày 5-8-2020, của Bộ Chính trị, “Về xây dựng và phát triển thành phố Cần Thơ đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045”; Nghị quyết số 98/NQ-CP ngày 30-8-2021, của Chính phủ, “Ban hành Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết Quyết số 59-NQ/TW, ngày 5-8-2020 của Bộ Chính trị về xây dựng và phát triển thành phố Cần Thơ đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045”; Nghị quyết số 45/2022/QH15, ngày 11-1-2022, của Quốc hội, “Về thí điểm một số cơ chế đặc thù phát triển thành phố Cần Thơ”...
(2) GRDP giai đoạn 2011 - 2023 ước tăng bình quân 5,87%. Năm 2023, giá trị tổng sản phẩm trên địa bàn (giá hiện hành) ước đạt 119.271 tỷ đồng, gấp 10,2 lần so với năm 2004
(3) GRDP/người năm 2023 ước đạt 94,74 triệu đồng, gấp 9,2 lần so năm 2004
(4) Tổng số vốn đầu tư toàn xã hội tăng từ 4.088 tỷ đồng năm 2004 lên 22.000 tỷ đồng năm 2020 và năm 2023 ước đạt 30.913 tỷ đồng, tăng bình quân 11,24%/năm
(5) Cuối năm 2022, tỷ lệ hộ nghèo giảm còn 0,52%; đến cuối năm 2023, tỷ lệ hộ nghèo ước giảm còn 0,32%
(6) Nghị quyết số 59-NQ/TW, ngày 5-8-2020, của Bộ Chính trị, “Về xây dựng và phát triển thành phố Cần Thơ đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045”
(7) Nghị quyết số 13-NQ/TW, ngày 2-4-2022, của Bộ Chính trị “Về phương hướng phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng đồng bằng sông Cửu Long đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045”