TCCS  - Thực hiện Nghị quyết số 29-NQ/TW , ngày 4-11-2013, của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI, “Về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế” (Nghị quyết số 29-NQ/TW), ngành giáo dục và đào tạo tỉnh Bến Tre đã đạt được những kết quả quan trọng. Thời gian tới, để tiếp tục phát huy những thành tựu đạt được, ngành cần phải nỗ lực hơn nữa bằng những giải pháp sát hợp với thực tiễn.

Các đội thi tranh tài tại Hội thi Sản phẩm sáng tạo và Robocon tỉnh Bến Tre lần 4, với chủ đề “Chuyển đổi số trong học sinh, sinh viên”_Ảnh: TTXVN

Sau 10 năm quán triệt, triển khai thực hiện Nghị quyết số 29-NQ/TW

Ngay sau Nghị quyết số 29-NQ/TW được ban hành, Ban Thường vụ Tỉnh ủy đã xây dựng Chương trình hành động số 33-CTr/TU, ngày 27-1-2014, để triển khai thực hiện. Sau 10 năm, ngành giáo dục và đào tạo của tỉnh đã đạt được những thành tựu đáng khích lệ:

Sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước trong đổi mới giáo dục và đào tạo được tăng cường. Trên cơ sở văn bản lãnh đạo, chỉ đạo của Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân tỉnh đã xây dựng kế hoạch triển khai đưa nghị quyết vào cuộc sống. Việc triển khai nghị quyết đã lồng ghép với đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị và các phong trào thi đua của ngành, như: “Mỗi thầy giáo, cô giáo là tấm gương về đạo đức, tự học và sáng tạo”, “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực”... Quá trình thực hiện nghị quyết đã tạo được nền nếp, kỷ cương, góp phần nâng cao chất lượng công tác giáo dục - đào tạo.

Đổi mới mạnh mẽ, đồng bộ các yếu tố cơ bản của giáo dục, đào tạo theo hướng coi trọng phát triển phẩm chất, năng lực người học. Các cơ sở giáo dục chú trọng rèn luyện cho học sinh tính chủ động, tích cực, tự học, tự nghiên cứu để tiếp nhận và vận dụng kiến thức mới; ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý, dạy học, kiểm tra, đánh giá. Ngành thực hiện Chương trình giáo dục lý tưởng cách mạng, đạo đức, lối sống văn hóa cho thanh niên, thiếu niên, nhi đồng trên không gian mạng giai đoạn 2022 - 2030, qua đó, giúp học sinh chủ động sàng lọc, nhận diện được các thông tin “xấu”, “độc” để phòng, tránh, tham gia đấu tranh.

Phương thức thi, kiểm tra, đánh giá kết quả giáo dục ngày càng thực chất. Áp dụng có hiệu quả xây dựng ma trận đề kiểm tra để đáp ứng chuẩn kiến thức, kỹ năng của chương trình giáo dục phổ thông; bảo đảm các kỳ xét tốt nghiệp, kiểm tra học kỳ, thi tốt nghiệp trung học phổ thông, tuyển sinh đầu cấp, thi học sinh giỏi các cấp an toàn, đúng quy chế và chú trọng đổi mới phương pháp dạy học, kiểm tra đánh giá theo định hướng phát triển năng lực, nên chất lượng học sinh có chuyển biến rõ nét so với trước khi thực hiện nghị quyết(1). Các trung tâm giáo dục nghề nghiệp - giáo dục thường xuyên rà soát, điều chỉnh nội dung dạy học theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo, đồng thời chủ động thiết kế lại chương trình phù hợp với địa phương đã mang lại hiệu quả khá tốt(2).

Quy hoạch phát triển mạng lưới giáo dục, đào tạo theo hướng hệ thống giáo dục mở, học tập suốt đời và xây dựng xã hội học tập được triển khai rộng khắp. Quy mô mạng lưới trường, lớp luôn được điều chỉnh, cơ bản đáp ứng yêu cầu nâng cao chất lượng giáo dục và nhu cầu học tập của nhân dân; bình quân tỷ lệ tốt nghiệp trung học phổ thông là 99,30%; giáo dục thường xuyên đạt 95,86%. Hằng năm, các địa phương, cơ sở giáo dục đều tổ chức nhiều hoạt động hưởng ứng tuần lễ học tập suốt đời nhằm nâng cao nhận thức của các tầng lớp nhân dân, cộng đồng dân cư về học tập suốt đời và xây dựng xã hội học tập. Công tác kiểm tra, giám sát, sơ kết, tổng kết diễn ra thường xuyên, đúng quy chuẩn.

Bảo đảm dân chủ, thống nhất; tăng quyền tự chủ và trách nhiệm xã hội của các cơ sở giáo dục, đào tạo; coi trọng quản lý chất lượng. Ngành đã thực hiện đổi mới, nâng cao hiệu lực và hiệu quả công tác quản lý đối với các cơ sở giáo dục theo hướng phân cấp quản lý, tăng quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của đơn vị trong thực hiện chương trình, kế hoạch giáo dục đi đôi với nâng cao năng lực quản trị nhà trường của đội ngũ cán bộ quản lý; có 100% số cơ sở giáo dục, cơ quan quản lý giáo dục đã hoàn thành xây dựng đề án vị trí việc làm; thực hiện công khai hóa về chất lượng giáo dục, nguồn lực cho giáo dục và tài chính của các cơ sở giáo dục.

Phát triển đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý, đáp ứng yêu cầu đổi mới. Các cấp ủy, chính quyền đặc biệt quan tâm công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ quản lý, giáo viên đạt chuẩn, nâng cao năng lực chuyên môn, nghiệp vụ, đạo đức nghề nghiệp để đáp ứng yêu cầu trong giai đoạn hiện nay. Đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức trong ngành từng bậc học, cấp học hầu hết đã đạt chuẩn và tỷ lệ đạt trên chuẩn ngày càng được nâng lên. Đến nay, 100% số cán bộ quản lý, 94,01% số giáo viên trường mầm non đạt trình độ từ cao đẳng trở lên; 97,94% số cán bộ quản lý, 89,03% số giáo viên trường tiểu học, trung học cơ sở đạt trình độ đại học trở lên; 100% số cán bộ quản lý, giáo viên trường trung học phổ thông đạt trình độ đại học trở lên.

Nâng cao hiệu quả đầu tư để phát triển giáo dục và đào tạo, thực hiện đổi mới chính sách, cơ chế tài chính, huy động sự tham gia đóng góp của toàn xã hội. Đã có nhiều cơ chế, chính sách tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển các trường, lớp ngoài công lập. Nhiều tổ chức, cá nhân trong và ngoài tỉnh đã hỗ trợ xây dựng, sửa chữa trường, lớp; trao hàng nghìn suất học bổng cho học sinh có hoàn cảnh khó khăn, tặng sách giáo khoa cho các em thuộc gia đình chính sách; giúp đỡ học phẩm, học cụ; đầu tư xây dựng và bổ sung cơ sở vật chất cho nhiều cơ sở giáo dục. Với tinh thần “Đồng hành cùng các em vượt qua  dịch COVID-19”, tỉnh đã vận động hơn 3,7 tỷ đồng, 494 máy tính bảng, 80 máy tính để bàn, 1.432 điện thoại thông minh từ các tổ chức, cá nhân trong và ngoài tỉnh kịp thời hỗ trợ cho học sinh có hoàn cảnh khó khăn.

Các hoạt động nghiên cứu, ứng dụng khoa học - công nghệ trong giảng dạy và học tập có chuyển biến rõ nét. Mỗi năm, trung bình có hơn 100 dự án khoa học - kỹ thuật tham dự Cuộc thi khoa học kỹ thuật dành cho học sinh trung học cấp tỉnh. Ngoài ra, ngành còn tổ chức các hoạt động phát triển năng lực học sinh như: Vận dụng kiến thức liên môn để giải quyết các tình huống thực tiễn, thi tiếng Anh, giải toán và giải toán bằng tiếng Anh trên internet, hùng biện tiếng Anh… Tỉnh đã có nhiều chương trình, dự án liên kết, thúc đẩy các hoạt động hợp tác quốc tế về giáo dục và đào tạo. Điển hình như Sở Giáo dục và Đào tạo phối hợp với tổ chức AISEC Việt Nam xây dựng kế hoạch triển khai sinh viên tình nguyện quốc tế đến các trường trung học trong năm học 2016 - 2017; phối hợp với tổ chức Seed to table (Nhật Bản) xây dựng và chuyển giao thực hiện Chương trình “Trồng rau hữu cơ trong trường phổ thông” cho các trường trung học phổ thông và các hoạt động ngoại khóa, giao lưu văn hóa và các hoạt động xã hội khác; chương trình giao lưu học sinh giữa Trường Nuôi dạy trẻ em khuyết tật với các đoàn học sinh quốc tế đến từ New Zealand, Australia, Malaysia, Nhật Bản, Hàn Quốc,… Riêng Trường Cao đẳng Bến Tre đã đón tiếp 47 lượt cán bộ, chuyên gia từ Singapore, Hoa Kỳ, Bỉ, Pháp, Hàn Quốc, Hà Lan, Nhật Bản… đến trợ giảng, trao đổi, xúc tiến về giáo dục.

Thực tiễn cho thấy, qua 10 năm thực hiện nghị quyết, chất lượng, hiệu quả giáo dục và đào tạo của tỉnh Bến Tre được nâng lên theo hướng toàn diện, bảo đảm thực chất: Quy mô trường, lớp ổn định cơ bản đáp ứng nhu cầu học tập của người dân; đội ngũ cán bộ quản lý, giáo viên có trình độ, năng lực chuyên môn, nghiệp vụ, phẩm chất đạo đức; cơ sở vật chất, trang thiết bị được tăng cường, quan tâm đầu tư. Chất lượng giáo dục các cấp học, bậc học đạt kết quả khá tốt; triển khai thực hiện Chương trình Giáo dục phổ thông 2018 đã thay đổi căn bản cách tiếp cận từ “theo nội dung” sang theo hướng “phát triển năng lực và phẩm chất” người học, dạy học “tích hợp” ở cấp dưới, dạy “phân hóa” ở cấp trên, tăng cường các môn tự chọn; chất lượng giáo dục toàn diện và chất lượng giáo dục mũi nhọn được nâng lên theo từng năm.

Bên cạnh những thành tựu đạt được, ngành giáo dục và đào tạo tỉnh Bến Tre cũng còn những hạn chế, đó là: (i) Tình trạng thừa, thiếu giáo viên cục bộ so với định mức gây khó khăn cho các cơ sở giáo dục bố trí nhân sự, giáo viên đứng lớp đã ảnh hưởng đến hiệu quả của đổi mới; (ii) Chất lượng giáo dục mũi nhọn chưa được duy trì bền vững. Hiệu quả dạy học chương trình tiếng Anh mới ở các cấp học chất lượng đầu ra chưa đáp ứng theo Đề án Dạy và học ngoại ngữ trong hệ thống giáo dục quốc dân giai đoạn 2008 - 2020 của tỉnh; (iii) Đầu tư cơ sở vật chất và trang thiết bị đào tạo cho các trường chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển trong giai đoạn mới... Nguyên nhân của những hạn chế trên chủ yếu do năng lực chuyên môn, nghiệp vụ của một số cán bộ quản lý chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ, chưa năng động, sáng tạo trong đổi mới quản lý theo hướng phân cấp, phân quyền cho cơ sở; một số giảng viên, giáo viên chưa bắt kịp yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học theo phát triển phẩm chất và năng lực học sinh, kiểm tra đánh giá; nguồn kinh phí đầu tư cho giáo dục, đào tạo chủ yếu từ ngân sách nhà nước nên không đáp ứng đủ nhu cầu xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho các cơ sở giáo dục, đào tạo...

Tiếp tục đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo trong thời gian tới

Quá trình 10 năm thực hiện Nghị quyết số 29-NQ/TW để lại một số bài học kinh nghiệm:

Thứ nhất, các cấp ủy, chính quyền của tỉnh đặc biệt quan tâm và thường xuyên lãnh đạo, chỉ đạo triển khai thực hiện nghị quyết. Đồng thời, ngành giáo dục - đào tạo của tỉnh luôn chủ động tham mưu với cấp uỷ, chính quyền cụ thể hóa chủ trương phát triển giáo dục và đào tạo phù hợp với từng địa phương; xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện sát thực tế, mang tính khả thi, có trọng tâm, trọng điểm với những giải pháp cụ thể; thường xuyên kiểm tra, đánh giá tiến độ thực hiện kế hoạch để kịp thời có giải pháp tháo gỡ, hoàn thành mục tiêu đề ra.

Thứ hai, thường xuyên quan tâm chăm lo công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ quản lý, giáo viên đủ về số lượng, có năng lực và trình độ chuyên môn đạt chuẩn, có phẩm chất đạo đức tốt, tinh thần trách nhiệm cao, tâm huyết và tận tụy với nghề, thực sự là tấm gương cho học sinh noi theo.

Thứ ba, vai trò, trách nhiệm của người đứng đầu cơ sở giáo dục phải gương mẫu, thường xuyên học tập để nâng cao trình độ, năng lực và phẩm chất, có khả năng quy tụ và lãnh đạo tập thể hoàn thành tốt nhiệm vụ.

Thứ tư, duy trì các hoạt động thanh tra, kiểm tra, giữ vững kỷ cương, nền nếp các hoạt động giáo dục và đào tạo, phòng ngừa và ngăn chặn các hiện tượng tiêu cực trong công tác giáo dục và đào tạo.

Với mục tiêu xây dựng nền giáo dục tỉnh Bến Tre theo hướng mở, có cơ cấu và phương thức giáo dục hợp lý, thường xuyên nâng cao chất lượng, bảo đảm dạy tốt, học tốt, quản lý tốt, thực học, thực nghiệp gắn với khuyến học, khuyến tài, xây dựng xã hội học tập đáp ứng yêu cầu đào tạo nguồn nhân lực của tỉnh theo thị trường lao động và nhu cầu học tập của nhân dân trong bối cảnh của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang diễn ra nhanh chóng và mạnh mẽ, thời gian tới, cần triển khai một số giải pháp:

Một là, tiếp tục phổ biến, quán triệt các mục tiêu, nhiệm vụ của Nghị quyết số 29-NQ/TW và Chương trình hành động số 33-CTr/TU của Tỉnh ủy nhằm nâng cao vai trò của cấp ủy, nâng cao ý thức, tinh thần trách nhiệm của đội ngũ cán bộ quản lý, giáo viên hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Đồng thời, đẩy mạnh công tác truyền thông về giáo dục và đào tạo nhằm tăng cường lòng tin xã hội trong sự nghiệp giáo dục và đào tạo thông qua việc cung cấp thông tin đúng, đủ, kịp thời và mang tính xây dựng về những mặt tích cực và cả những hạn chế trong công tác giáo dục và đào tạo.

Hai là, bảo đảm các điều kiện, tập trung thực hiện tốt Chương trình giáo dục phổ thông năm 2018 theo lộ trình của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Tập trung đổi mới phương pháp và hình thức tổ chức dạy học tích cực; chú trọng giáo dục đạo đức, kỹ năng sống cho học sinh, sinh viên; tăng cường các hoạt động trải nghiệm sáng tạo, nghiên cứu khoa học; tích hợp giảng dạy các nội dung giáo dục khởi nghiệp và giáo dục “Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”. Mở rộng dạy tiếng Anh ở bậc mầm non, tiểu học và nâng cao chất lượng môn học này ở các cấp học; đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý và giảng dạy.

Ba là, lãnh đạo tốt việc đổi mới hình thức và phương pháp thi, kiểm tra, đánh giá kết quả giáo dục, đào tạo theo hướng chú trọng đánh giá phẩm chất và năng lực học sinh, sinh viên; tăng cường kỹ năng thực hành, vận dụng kiến thức, kỹ năng vào giải quyết các vấn đề thực tiễn, sử dụng kết quả đánh giá để điều chỉnh nội dung và phương pháp dạy học phù hợp. Chỉ đạo các cơ sở giáo dục thực hiện tốt công tác hướng nghiệp và định hướng phân luồng học sinh phổ thông. Đẩy mạnh xã hội hóa giáo dục; huy động sự đóng góp của toàn xã hội để đầu tư phát triển giáo dục, nhất là giáo dục mầm non và giáo dục nghề nghiệp. Tích cực đổi mới cơ chế, thúc đẩy hợp tác quốc tế trong dạy, học ngoại ngữ và các hoạt động nghiên cứu, ứng dụng khoa học - kỹ thuật trong, giảng viên, giáo viên và học sinh, sinh viên.

Bốn là, phát huy hơn nữa vai trò, trách nhiệm của người đứng đầu; đẩy mạnh phân cấp quản lý, giao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho các cơ sở giáo dục gắn với đẩy mạnh kiểm tra, chấn chỉnh các sai phạm trong giáo dục, nhất là việc dạy thêm, học thêm; thực hiện tốt Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở năm 2022, công tác thi đua. Nâng chất lượng sinh hoạt chi bộ, xây dựng tổ chức đảng, đoàn thể ở các cơ sở giáo dục đạt trong sạch, vững mạnh.

Năm là, nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục để đáp ứng yêu cầu quản lý, giảng dạy trong tình hình mới; bảo đảm các điều kiện để thực hiện tốt việc đổi mới chương trình sách giáo khoa giáo dục phổ thông. Tiếp tục thực hiện tinh giản biên chế theo quy định tại Nghị định số 29/2023/NĐ-CP của Chính phủ; tổ chức lại các trường mầm non, trường phổ thông theo hướng tích hợp trường nhiều bậc học, thu gọn một số điểm trường theo Chương trình hành động số 29-CTr/TU của Tỉnh ủy thực hiện Nghị quyết số 19-NQ/TW, ngày 25-10-2017, của Ban Chấp hành Trung ương khóa XII, về tiếp tục đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập. Khẩn trương phối hợp với các sở, ngành, Phân hiệu Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh tại địa phương hoàn thành Đề án thành lập Trường Đại học Tây Nam bộ.

Sáu là, thực hiện tốt cơ chế tự chủ biên chế, tài chính; bảo đảm thực hiện đầy đủ chế độ, chính sách cho cán bộ, công chức, viên chức trong ngành giáo dục. Thường xuyên rà soát, thống kê để có kế hoạch xây dựng, sửa chữa, mua sắm trang thiết bị cho các cơ sở giáo dục, đào tạo theo hướng đạt chuẩn quốc gia; bổ sung giáo viên mầm non, giáo viên dạy nghề còn thiếu.

Chính phủ cần mở rộng đối tượng thụ hưởng chính sách miễn giảm cho học sinh tốt nghiệp trung học phổ thông theo học cao đẳng, trung cấp để thu hút đối tượng này vào học tại các trường cao đẳng, trung cấp. Sớm thành lập các trung tâm đánh giá, sát hạch kỹ năng nghề quốc gia ở một số ngành thuộc lĩnh vực nông nghiệp, thủy sản, thú y, kinh tế, y tế, du lịch nhằm tạo điều kiện để các nhà giáo tham gia sát hạch theo quy định của Luật Giáo dục nghề nghiệp.

Bộ Giáo dục và Đào tạo đẩy mạnh bồi dưỡng, đào tạo nâng cao trình độ cán bộ quản lý giáo dục; quản lý chặt chẽ các cơ sở đào tạo vừa làm, vừa học để nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ quản lý, giáo viên. Phối hợp các bộ, ngành có liên quan ban hành văn bản xếp hạng các trung tâm giáo dục nghề nghiệp - giáo dục thường xuyên và văn bản quy định chính sách ưu đãi cho giáo viên làm công tác giáo dục nghề nghiệp tương đồng với giáo viên giáo dục thường xuyên trong cùng đơn vị./.

--------------------

(1) Đối với hệ trung học phổ thông, tỷ lệ học sinh xếp loại hạnh kiểm khá, tốt đạt 98,85% (tăng 1,97%), hạnh kiểm yếu chỉ còn 0,14% (giảm 0,39%), học lực khá, giỏi đạt 66,47% (tăng 19,22%), học lực yếu, kém 2,0% (giảm 10,33%); hệ trung học cơ sở, xếp loại hạnh kiểm khá, tốt đạt 99,60% (tăng 0,27%), hạnh kiểm yếu 0,04% (giảm 0,02%), học lực khá, giỏi đạt 74,10% ( tăng 5,73%), học lực yếu, kém 2,20% (giảm 1,02%) đối với hệ trung học cơ sở.
(2) Cụ thể: tỷ lệ học viên các trung tâm đạt học lực giỏi là 3,29% (tăng 0,11%), khá 29,63% (tăng 5,32%), trung bình 48,59% (giảm 0,7%), yếu 16,55% (giảm 5,45%), kém 1,94 % (giảm 0,2 %); Với hạnh kiểm tốt 68,93% (tăng 8,78%), khá 23,13% (giảm 9,57%), trung bình 3,44% (giảm 1,36%), yếu 0,14% (giảm 0,86%), không xếp loại 1,7%.