Kết hợp nhiệm vụ bảo đảm quốc phòng - an ninh với phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn Quân khu 5 hiện nay

THÁI ĐẠI NGỌC
Trung tướng, Ủy viên Trung ương Đảng, Tư lệnh Quân khu 5
16:41, ngày 05-09-2023

TCCS - Văn kiện Đại hội XIII của Đảng xác định nhiệm vụ: “Kết hợp chặt chẽ, hiệu quả giữa kinh tế, văn hóa, xã hội, đối ngoại với quốc phòng, an ninh và giữa quốc phòng, an ninh với kinh tế, văn hóa, xã hội và đối ngoại”(1). Quan điểm trên khẳng định việc kết hợp chặt chẽ, hiệu quả giữa nhiệm vụ bảo đảm quốc phòng - an ninh với phát triển kinh tế - xã hội được Đảng ta xác định là nhiệm vụ quan trọng và cấp thiết; là một trong những phương thức hữu hiệu để bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn mới.

1- Địa bàn Quân khu 5 bao gồm 11 tỉnh, thành phố với diện tích tự nhiên khoảng 81.431,2km2 (chiếm gần 1/4 diện tích cả nước); dân số trên 12 triệu người, với 52 dân tộc anh em cùng chung sống; phía Tây có đường biên giới dài 743,837km, giáp với hai nước bạn Lào và Cam-pu-chia; phía Đông có đường bờ biển dài 922km với nhiều bãi biển đẹp. Bên cạnh đó, vùng lãnh hải gần bờ có 80 đảo lớn, nhỏ, trong đó có 12 đảo có dân sinh sống; 2 quần đảo ngoài khơi (Hoàng Sa và Trường Sa) nằm trong vùng lãnh hải rộng hơn 300.000km2 và vùng đặc quyền kinh tế khoảng 1.200.000km2; có 2 cửa khẩu quốc tế và 4 cửa khẩu quốc gia; 10 cảng biển (6 cảng biển loại I, 4 cảng biển loại II) với 50 cảng cá, khu neo đậu tàu thuyền lớn, nhỏ; 11 sân bay (3 sân bay quốc tế, 4 sân bay nội địa, 4 sân bay quân sự và một số sân bay dã chiến); 118 khu kinh tế - cụm công nghiệp chính. Đây là địa bàn có vị trí địa - kinh tế, địa - chính trị cực kỳ quan trọng, là nơi các thế lực thù địch, phản động trong và ngoài nước sử dụng nhiều phương thức, thủ đoạn, lợi dụng tình hình tranh chấp chủ quyền biển, đảo và các vụ việc có liên quan đến vấn đề dân tộc, tôn giáo,... hòng kích động, xuyên tạc và chống phá Đảng, Nhà nước và cách mạng nước ta.

Tuần tra biển, đảo quê hương _Ảnh: Hoàng Chí Hùng

Nhận thức rõ quan điểm kết hợp phát triển kinh tế - xã hội gắn với củng cố quốc phòng - an ninh của Đảng, trong những năm qua, Đảng ủy, Bộ Tư lệnh Quân khu 5 đã lãnh đạo, chỉ đạo lực lượng vũ trang bám sát các nghị quyết, chỉ thị, hướng dẫn của Bộ Quốc phòng về công tác quân sự, quốc phòng(2); nêu cao tinh thần đoàn kết, thống nhất, nỗ lực khắc phục khó khăn, phấn đấu đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội gắn với tăng cường tiềm lực quốc phòng - an ninh. Trên cơ sở đó, Quân khu đã xây dựng nghị quyết, kế hoạch tổ chức thực hiện phù hợp với đặc thù đơn vị, nhiệm vụ, địa bàn và đạt được một số kết quả quan trọng, thể hiện ở những nội dung sau:

Một là, Quân khu đã phối hợp chặt chẽ với cấp ủy, chính quyền các địa phương và các lực lượng trên địa bàn xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân; xây dựng các tiềm lực, thế trận phòng thủ quân khu, khu vực phòng thủ “cơ bản, liên hoàn, vững chắc”; đồng thời, các cơ quan quân sự địa phương thực hiện tốt việc phối hợp chặt chẽ với các ban, ngành, các đoàn thể chính trị - xã hội tham mưu với cấp ủy, chính quyền địa phương xây dựng tiềm lực khu vực phòng thủ, trong đó đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội, đánh giá tiềm lực kinh tế và quốc phòng của từng khu vực, đặc biệt là ở những nơi trọng yếu, tuyến biên giới, hải đảo, vùng khó khăn bằng cách tổ chức khảo sát, phân loại, xây dựng công trình quân sự lưỡng dụng tại các khu vực dành cho mục đích quốc phòng, những khu vực kết hợp kinh tế với quốc phòng và những khu vực dành cho phát triển kinh tế; bảo đảm gắn kết chặt chẽ với củng cố quốc phòng - an ninh trên địa bàn, thực hiện đúng tư tưởng chỉ đạo mỗi bước phát triển kinh tế - xã hội là một bước củng cố, tăng cường tiềm lực cho quốc phòng, an ninh.

Chú trọng ưu tiên đầu tư xây dựng các công trình kinh tế quốc phòng ở những nơi trọng yếu, tuyến biên giới, hải đảo, vùng khó khăn; kịp thời điều chỉnh một số chủ trương, chính sách, biện pháp lãnh đạo, chỉ đạo nhằm kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế - xã hội với bảo đảm quốc phòng - an ninh; thường xuyên giữ vững mối quan hệ chặt chẽ giữa cấp ủy các địa phương với Đảng ủy, Bộ Tư lệnh Quân khu 5, cấp ủy, chỉ huy các cấp các cơ quan, đơn vị, tạo sự đồng thuận, thống nhất cao trong nhận định, đánh giá tình hình. 

Hằng năm, ngoài ngân sách quốc phòng, các tỉnh, thành phố trên địa bàn Quân khu 5 đã quan tâm bố trí, đầu tư ngân sách địa phương để xây dựng các công trình phòng thủ. Chú trọng đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng, kết nối liên hoàn giữa các địa bàn trong thế trận khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố. Các công trình quân sự lưỡng dụng ngày càng hoàn chỉnh, hệ thống giao thông (nhất là các tuyến đường ven biển, tuần tra biên giới và sân bay, bến cảng, các công trình, nhà máy, cơ sở sản xuất, mạng lưới y tế,...) thường xuyên được củng cố, nâng cấp nhằm đáp ứng nhu cầu dân sinh trong thời bình, sẵn sàng chuyển công năng phục vụ quốc phòng khi có chiến tranh hoặc những tình huống khẩn cấp.

Hai là, Quân khu đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng đề án bảo đảm quốc phòng của Quân khu và các tỉnh, thành phố giai đoạn 2015 - 2020, định hướng đến năm 2030. Triển khai xây dựng các đoàn kinh tế quốc phòng ở những địa bàn chiến lược, vùng sâu, vùng xa, biên giới; bước đầu đã lồng ghép được các chương trình mục tiêu quốc gia với các dự án kinh tế quốc phòng, góp phần tạo ra thế bố trí dân cư, ổn định chính trị, phát triển kinh tế - xã hội gắn với củng cố quốc phòng, an ninh. Các doanh nghiệp, tập đoàn kinh tế quốc phòng tổ chức sản xuất, kinh doanh ổn định, hiệu quả, chấp hành nghiêm các quy định của pháp luật về quản lý, sử dụng đất quốc phòng, đất dự án vào hoạt động sản xuất, kinh doanh; ưu tiên xây dựng các dự án, hạng mục công trình liên quan trực tiếp đến việc xoá đói, giảm nghèo, cải thiện đời sống của nhân dân; đầu tư xây dựng ở mỗi khu kinh tế quốc phòng một mô hình cụm, điểm dân cư theo tiêu chí xây dựng nông thôn mới của Chính phủ; phối hợp với địa phương triển khai các mô hình hỗ trợ sản xuất, giảm nghèo gắn với quốc phòng, an ninh, xây dựng nếp sống mới ở các xã biên giới và các khu kinh tế quốc phòng; xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân với mục tiêu “an dân, nắm dân, giành và giữ dân”, giải quyết kịp thời những mâu thuẫn, kiến nghị, khiếu kiện của nhân dân; đấu tranh với những luận điệu tuyên truyền, xuyên tạc đường lối, chủ trương của Đảng và Nhà nước, đấu tranh để từng bước xoá bỏ các “tà đạo”, các tổ chức phản động, lực lượng Phun-rô lưu vong, cái gọi là “Nhà nước Tin lành Đề-ga”, “Nhà nước Mông-ta-nha”; giữ vững ổn định chính trị, xây dựng và củng cố lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, cấp ủy, chính quyền các địa phương trên địa bàn.

Ba là, công tác giáo dục, bồi dưỡng kiến thức quốc phòng - an ninh đạt hiệu quả và chất lượng cao; nội dung, kiến thức áp dụng đào tạo có trọng tâm, trọng điểm. Chú trọng bồi dưỡng kiến thức quốc phòng - an ninh cho đội ngũ cán bộ, đảng viên giữ vai trò chủ trì, chủ chốt của các cơ quan, đơn vị ở các cấp; các chức sắc, chức việc, nhà tu hành trong các tổ chức tôn giáo và các già làng, trưởng bản, người có uy tín trong dòng họ, cộng đồng dân cư. Với đối tượng là học sinh, sinh viên, công tác giáo dục quốc phòng có nhiều đổi mới, chú trọng kết hợp giữa bài giảng với tham quan, tham gia trực tiếp vào việc xây dựng và giữ gìn các di tích lịch sử, giúp đỡ các gia đình có công với cách mạng để khơi dậy lòng yêu nước, ý thức dân tộc. Giáo dục kết hợp với quán triệt quan điểm về thực hiện tốt hai nhiệm vụ chiến lược của Đảng, đề cao cảnh giác cách mạng, củng cố quốc phòng, giữ vững an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ Tổ quốc và các thành quả cách mạng. Chủ động và kịp thời giáo dục nâng cao nhận thức cho mọi cán bộ, đảng viên, quần chúng nhân dân và các lực lượng vũ trang về âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch, nhận định rõ về đối tượng và đối tác của cách mạng Việt Nam.

Bốn là, Đảng ủy, Bộ Tư lệnh Quân khu 5 luôn tập trung lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng các cơ quan, đơn vị vững mạnh về mọi mặt, cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức, theo hướng “tinh, gọn, mạnh”. Từng bước kiện toàn tổ chức, biên chế các cơ quan, đơn vị theo quy định về tổ chức, biên chế mới của Bộ Quốc phòng. Lực lượng quân sự, công an, Bộ đội Biên phòng các tỉnh, thành phố thường xuyên được củng cố cả về biên chế, tổ chức, nâng cao chất lượng tổng hợp, chất lượng phối hợp công tác, chất lượng hợp đồng tác chiến. Đội ngũ cán bộ, chiến sĩ có bản lĩnh chính trị vững vàng, có kiến thức và trình độ chuyên môn, nghiệp vụ toàn diện, đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội. Triển khai thực hiện có hiệu quả Nghị định số 03/2019/NĐ-CP, ngày 5-9-2019, của Chính phủ, “Về phối hợp giữa Bộ Công an và Bộ Quốc phòng trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, đấu tranh phòng, chống tội phạm và nhiệm vụ quốc phòng”, lực lượng vũ trang Quân khu đã tập trung nắm chắc tình hình, giải quyết kịp thời, hiệu quả các vụ việc phức tạp về an ninh, trật tự; không để hình thành các tổ chức chính trị đối lập, phòng, chống hiệu quả chiến lược “diễn biến hòa bình”, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” và âm mưu “phi chính trị hóa” quân đội của các thế lực thù địch. Cùng với đó, Đảng bộ Quân khu xác định nhiều giải pháp nhằm xây dựng tổ chức Đảng các cấp vững mạnh về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ gắn với xây dựng lực lượng vũ trang Quân khu 5 vững mạnh toàn diện, “mẫu mực, tiêu biểu”.

2- Bên cạnh những kết quả đạt được, việc kết hợp nhiệm vụ bảo đảm quốc phòng - an ninh với phát triển kinh tế - xã hội tại địa bàn Quân khu 5 vẫn có những hạn chế, khuyết điểm, như vai trò lãnh đạo của cấp ủy ở một số đơn vị chưa phát huy hết chức năng, nhiệm vụ trong tham gia xây dựng cơ sở chính trị địa phương; tăng trưởng kinh tế không đồng đều giữa các địa phương; khả năng thu hút vốn đầu tư nước ngoài ở một số tỉnh, thành phố còn thấp. Bên cạnh đó, việc ứng dụng khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo trong nông nghiệp chưa được chú trọng; triển khai công tác tuyên truyền, vận động nhân dân, dân vận trên địa bàn hiệu quả chưa cao, có mặt còn hạn chế; mô hình tổ chức sản xuất tại các khu kinh tế quốc phòng chưa tạo được nhiều việc làm cho nhân dân; chưa phối hợp tốt với chính quyền địa phương trong việc xác định các công trình đầu tư, phối hợp lồng ghép thực hiện các dự án, mô hình giảm nghèo.

3- Trước yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới và quán triệt quan điểm của Đảng về thực hiện mỗi bước tăng trưởng kinh tế - xã hội là một bước củng cố tiềm lực quốc phòng - an ninh; đồng thời, phát huy những kết quả đã đạt được, khắc phục một số hạn chế, thời gian tới, Đảng ủy, Bộ Tư lệnh Quân khu tập trung thực hiện một số giải pháp sau:

Trước tiên, tiếp tục tuyên truyền, nâng cao nhận thức, trách nhiệm, năng lực tham mưu lãnh đạo, chỉ đạo cho lực lượng vũ trang Quân khu về củng cố quốc phòng - an ninh gắn với phát triển kinh tế - xã hội nhằm tạo sự thống nhất cao về nhiệm vụ của cơ quan, đơn vị và nhiệm vụ xây dựng nền quốc phòng toàn dân thời kỳ mới. Tăng cường bồi dưỡng chính trị, tư tưởng, đổi mới công tác giáo dục, tập trung nâng cao kiến thức, kinh nghiệm cho từng đối tượng (đặc biệt là cấp ủy, chỉ huy các cấp) về vị trí, vai trò của địa bàn, đặc điểm, mục tiêu, yêu cầu nhiệm vụ, vai trò của cá nhân, tập thể tham gia phát triển kinh tế - xã hội với bảo đảm quốc phòng  - an ninh; kết hợp giáo dục chung với giáo dục riêng, gắn kết với tuyên truyền thực hiện các phong trào thi đua, công tác dân vận,... phù hợp với từng đối tượng. Đồng thời, lực lượng vũ trang Quân khu tiếp tục kết hợp chặt chẽ với lực lượng công an, biên phòng cùng với các ban, ngành, đoàn thể chính trị - xã hội ở địa phương bám sát đặc điểm địa bàn, chủ động nắm chắc, dự báo sớm, đánh giá đúng tình hình, kịp thời tham mưu cho Đảng ủy Bộ Tư lệnh Quân khu đề xuất với Đảng, Nhà nước, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng có đối sách, giải pháp phù hợp từng khu vực nhằm tăng cường phát triển kinh tế - xã hội gắn với quốc phòng - an ninh. Qua đó, làm cho cán bộ, chiến sĩ trong lực lượng vũ trang Quân khu nhận thức sâu sắc nhiệm vụ, phát huy cao nhất tinh thần trách nhiệm, nâng cao hiệu quả thực hiện các nhiệm vụ; kiên quyết đấu tranh chống quan điểm sai trái, phát hiện và đập tan các âm mưu, hành động chống phá của các thế lực thù địch; trừng trị nghiêm khắc mọi âm mưu, thủ đoạn xâm hại đến kinh tế - xã hội và quốc phòng, an ninh.

Hai là, nâng cao năng lực lãnh đạo, phát huy hiệu quả quản lý của các đơn vị kinh tế quốc phòng. Đây là vấn đề có tính quy luật, là yêu cầu tất yếu khách quan để phát triển kinh tế - xã hội gắn với quốc phòng - an ninh. Định kỳ tổ chức các lớp tập huấn nghiệp vụ công tác đảng cho các đồng chí cấp ủy, bí thư các cấp nhằm nâng cao nhận thức về vai trò của tổ chức cơ sở đảng trong thực hiện các chủ trương, chính sách để phát triển kinh tế - xã hội gắn với quốc phòng - an ninh. Các đoàn kinh tế quốc phòng cần đổi mới phương pháp quản lý, điều hành, chủ động tìm kiếm, mở rộng các dự án, mô hình đến các khu vực vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới gặp nhiều khó khăn, từ đó vừa bảo đảm nhiệm vụ xây dựng quốc phòng - an ninh, vừa bảo đảm việc làm, đời sống cho người lao động, đẩy mạnh xóa đói, giảm nghèo, bảo vệ chủ quyền biên giới; đồng thời, chủ động phối hợp với các đoàn kinh tế quốc phòng, như Binh Đoàn 15, Công ty Sông Thu,... để phát triển các mô hình, dự án, đa dạng ngành nghề, nâng cao tay nghề sản xuất và chất lượng sản phẩm. Cùng với đó, tiếp tục triển khai hiệu quả Dự án tăng cường trí thức trẻ tình nguyện đến công tác tại các khu kinh tế quốc phòng. Từng bước quy hoạch tăng gia sản xuất, chế biến theo hướng tập trung, đồng bộ, bền vững, phù hợp với từng loại hình đơn vị, gắn với quy hoạch doanh trại. Bên cạnh đó, coi trọng công tác bảo đảm kỹ thuật, nhất là bảo đảm vũ khí, trang bị, phương tiện kỹ thuật cho các nhiệm vụ thường xuyên và đột xuất; thực hiện Cuộc vận động 50 đạt hiệu quả thiết thực, bảo đảm an toàn, hạn chế thấp nhất tai nạn giao thông do lỗi chủ quan.

Cán bộ, chiến sĩ Binh Đoàn 15 hướng dẫn kỹ thuật khai thác mủ cao su cho đồng bào dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên_Nguồn: dangcongsan.vn

Ba là, xây dựng chiến lược cụ thể kết hợp phát triển kinh tế - xã hội gắn với tăng cường củng cố quốc phòng - an ninh trong thời kỳ mới; thực hiện một cách toàn diện, nhưng tập trung có trọng điểm theo từng ngành, lĩnh vực và vùng lãnh thổ, gắn với mục tiêu yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nghị quyết số 28-NQ/TW, ngày 25-10-2013, của Hội nghị Trung ương 8 khóa XI, “Về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới” xác định: Kết hợp chặt chẽ phát triển kinh tế với bảo đảm quốc phòng, an ninh trong các dự án lớn, quy hoạch phát triển các vùng, các ngành kinh tế, nhất là các vùng kinh tế trọng điểm, các địa bàn chiến lược, các ngành quan trọng.

Thường vụ Đảng ủy, Bộ Tư lệnh Quân khu tập trung lãnh đạo, chỉ đạo bộ chỉ huy quân sự các tỉnh, thành phố làm tốt công tác tham mưu cho cấp ủy, chính quyền địa phương triển khai thực hiện có hiệu quả các chủ trương, chính sách, chương trình phát triển kinh tế - xã hội của Đảng, Nhà nước(3). Trong đó có Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững, bảo đảm đất ở, đất sản xuất, việc làm, thu nhập, xây dựng nông thôn mới, nhất là ở vùng sâu, vùng xa, khu vực biên giới, biển, đảo, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, đồng bào theo tôn giáo. Khắc phục những bất cập trong cơ chế, chính sách và khuyết điểm trong xây dựng, phát triển kinh tế. Phát triển kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, thu hẹp khoảng cách chênh lệch đời sống giữa vùng rừng núi, nông thôn với thành thị, giữa đồng bào dân tộc thiểu số với đồng bào các dân tộc khác. Kết hợp chặt chẽ việc phát triển kinh tế - xã hội với xây dựng thế trận khu vực phòng thủ các tỉnh, thành phố; các dự án trọng điểm quốc gia; các dự án chương trình phát triển kinh tế - xã hội vùng biên giới, biển, đảo; xây dựng căn cứ chiến lược, hậu phương chiến lược, các công trình quốc phòng; đầu tư phát triển khoa học - công nghệ ở trình độ cao; xây dựng và phát triển công nghiệp quốc phòng.

Bốn là, coi trọng kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với củng cố quốc phòng, an ninh trong hoạt động kinh tế đối ngoại. Trong bối cảnh hiện nay, nước ta hội nhập ngày càng sâu rộng với nền kinh tế thế giới, tham gia vào các thiết chế trong khu vực và toàn cầu, điều đó đòi hỏi chúng ta vừa phải hội nhập kinh tế quốc tế một cách chủ động, tích cực, vừa phải mở rộng hợp tác quốc tế trên lĩnh vực quốc phòng - an ninh trong suốt quá trình hội nhập.

Quân khu 5 là địa bàn nằm trên trục giao thông chính Bắc - Nam, cửa ngõ ra biển của Hành lang kinh tế Đông - Tây nối với đường hàng hải quốc tế qua Biển Đông và Thái Bình Dương; có nhiều điều kiện thuận lợi để thúc đẩy giao lưu kinh tế với các nước ASEAN thông qua Hành lang Kinh tế Đông - Tây. Bộ Tư lệnh Quân khu 5 trong phương hướng chiến lược của mình đã xác định cần phối hợp chặt chẽ với các địa phương giáp biên và lực lượng chức năng nước bạn Lào, Cam-pu-chia trong phát triển kinh tế, ổn định an ninh, trật tự; phân giới, cắm mốc trên tuyến biên giới. Đồng thời, tăng cường các hoạt động hữu nghị giữa hai bên nhằm tạo mối quan hệ bền chặt, đoàn kết và cùng có lợi. Qua đó, kịp thời giải quyết những vấn đề, vướng mắc có liên quan, không để ảnh hưởng đến nền quốc phòng, an ninh của đất nước, góp phần bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa./.

---------------------------

(1) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. I, tr. 157
(2) Đảng ủy, Bộ Tư lệnh Quân khu 5 đã lãnh đạo, chỉ đạo cấp ủy, chỉ huy các cấp quán triệt, triển khai thực hiện nghiêm Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 (khóa XI) về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới; Nghị quyết số 425-NQ/QUTW, ngày 18-5-2017, của Quân ủy Trung ương, “Về sắp xếp, đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp quân đội đến năm 2020 và những năm tiếp theo”; Kết luận số 64-KL/TW, ngày 30-10-2019, của Bộ Chính trị (khóa XII), “Về đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết số 28-NQ/TW về tiếp tục xây dựng các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thành khu vực phòng thủ vững chắc trong tình hình mới”; Nghị định số 21/2019/NĐ-CP, ngày 22-2-2019, của Chính phủ, “Về khu vực phòng thủ”; Chỉ thị số 168-CT/QUTW, ngày 8-02-2020, của Quân ủy Trung ương, “Về công tác dân vận của quân đội trên địa bàn trọng điểm về quốc phòng, an ninh trong tình hình mới”; Nghị quyết số 820-NQ/QUTW, ngày 17-12-2021, của Quân ủy Trung ương, “Về lãnh đạo nhiệm vụ lao động sản xuất, xây dựng kinh tế kết hợp quốc phòng của quân đội đến năm 2030”; Thông tư số 178/2021/TT-BQP, ngày 30-12-2021, của Bộ Quốc phòng, “Về hướng dẫn thực hiện Nghị định số 22/2021/NĐ-CP, ngày 19-3-2021 của Chính phủ”
(3) Như: Nghị quyết số 12/NQ-CP, ngày 15-2-2020, của Chính phủ, “Về triển khai thực hiện Nghị quyết số 88/2016/QH14, ngày 18-11-2019, của Quốc hội, về phê duyệt Đề án tổng thể phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021 - 2030”; Quyết định số 3935/QĐ-BQP, ngày 10-11-2021, của Bộ Quốc phòng, “Về ban hành Kế hoạch triển khai thực hiện Quyết định số 1719/QĐ-TTg, ngày 14-10-2021, của Thủ tướng Chính phủ, về phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021 - 2030, giai đoạn I: Từ năm 2021 đến năm 2025”; Nghị quyết số 23-NQ/TW, ngày 6-10-2022, của Bộ Chính trị (khóa XIII), “Về phát triển kinh tế - xã hội gắn với bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Tây Nguyên đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045”; Nghị quyết số 26-NQ/TW, ngày 3-11-2022, của Bộ Chính trị (khóa XIII), “Về phát triển kinh tế - xã hội gắn với bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải Trung bộ đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045”