TCCS - Khoảng cách cung và cầu về nhân lực cho chuyển đổi số trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng và chất lượng nguồn nhân lực là vấn đề xuất hiện ở nhiều quốc gia trên thế giới. Tại Việt Nam, để đạt được các mục tiêu(1) trong quá trình chuyển đổi số ở lĩnh vực tài chính, đặt ra trong “Chương trình Chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030”, ngày 3-6-2020, của Chính phủ, cần thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp.

Bí thư Trung ương Đảng, Phó Thủ tướng Chính phủ Lê Minh Khái cùng các đại biểu tham quan gian trưng bày công nghệ chuyển đổi số của các ngân hàng tại Ngày Chuyển đổi số ngành ngân hàng năm 2023, với thông điệp “Ứng dụng dữ liệu dân cư trong hoạt động ngân hàng - động lực thúc đẩy chuyển đổi số”_Ảnh: TTXVN

Nhân lực ngành tài chính, ngân hàng trong nền kinh tế số

Nguồn nhân lực là một nhân tố quan trọng quyết định đến tăng trưởng kinh tế bên cạnh yếu tố vốn, tài nguyên và công nghệ. Nhân lực ở đây chính là kiến thức và các kỹ năng mà người lao động có được thông qua giáo dục, đào tạo và kinh nghiệm. Theo Bộ Khoa học và Công nghệ (năm 2019), kinh tế số là một phần của nền kinh tế, trong đó bao gồm các mô hình kinh doanh tạo ra sản phẩm, dịch vụ số hoặc hỗ trợ cung cấp dịch vụ số cho doanh nghiệp. Kinh tế số là một nền kinh tế vận hành chủ yếu dựa trên nền tảng công nghệ số và có sự hội tụ của hàng loạt công nghệ mới, như điện toán đám mây, công nghệ máy tính, dữ liệu lớn, trí tuệ nhân tạo (AI), internet vạn vật và nền tảng số hóa,... hiện diện và có tác động trên tất cả lĩnh vực của nền kinh tế (công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ; sản xuất, phân phối, lưu thông hàng hóa; giao thông vận tải, giao nhận, tài chính, ngân hàng (TCNH),...). Kinh tế số, đặc biệt là với sự tiến bộ nhanh chóng của trí tuệ nhân tạo, máy móc có thể thực hiện được nhiều công đoạn của quá trình sản xuất. Khi máy móc dần thay thế con người sẽ kéo theo hệ lụy mất việc làm ngày càng gia tăng của người lao động. Theo Autor và Handel (năm 2013), sự thay đổi về công nghệ sẽ tạo ra sự suy giảm việc làm nói chung, trong tương lai sẽ có khoảng 50% công việc tại Mỹ và các nước tiên tiến khác sẽ được thay thế bằng máy tính hoặc thuật toán(2).

Tuy nhiên, Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD) cho rằng, cần tiếp cận phân tích vấn đề này dựa trên đặc điểm, nhiệm vụ của từng công việc riêng lẻ, thay vì trên bình diện chung tất cả công việc. Dựa trên phương pháp này, trung bình khoảng 9% việc làm có nguy cơ cao bị thay thế bởi tự động hóa; trong khi đó, trung bình 50 - 70% công việc có thể được thực hiện tự động hóa(3). Nền kinh tế số có tác động to lớn tới thị trường lao động, như tạo việc làm mới; thay đổi công việc; thay thế hình thức làm việc và chuyển đổi công việc. Sự thay đổi công việc chủ yếu sẽ ảnh hưởng đến những người lao động có kỹ năng thấp. So với nền kinh tế truyền thống, người lao động trong nền kinh tế số nhận được ít quyền lợi bảo trợ xã hội, ít cơ hội được đào tạo nghề nghiệp và phát triển nghề nghiệp, khó khăn trong việc tiếp cận tín dụng - ngân hàng. Kinh tế số cũng gây ảnh hưởng tới cơ cấu tiền lương của doanh nghiệp, người lao động có trình độ cao sẽ có nhiều đề nghị với mức lương cao hơn, trong khi đó nhu cầu đối với người lao động có kỹ năng trung cấp ngày càng giảm, tạo nên sự cạnh tranh về lương trong khu vực này. Những thay đổi này làm gia tăng nguy cơ gây bất bình đẳng trong thu nhập, gia tăng tình trạng nghèo đói trong lao động hơn so với trước kia. Những bất bình đẳng này cũng sẽ tác động về mặt địa lý, vì công việc mới dành cho người lao động tay nghề cao sẽ được tạo ra ở những thành phố thông minh, thịnh vượng (có hàm lượng công nghệ cao); trong khi đó, các thành phố khác sẽ chứng kiến người lao động bị mất việc làm. Báo cáo của Google, Temasek và Bain năm 2019 cho thấy, nền kinh tế số các nước Đông Nam Á đạt giá trị 12 tỷ USD vào năm 2019, đóng góp 5% GDP quốc gia, cao gấp 4 lần so với giá trị của năm 2015 và dự đoán chạm mốc 43 tỷ USD vào năm 2025(4).

Việt Nam là quốc gia có sự phát triển kinh tế số nhanh nhất khu vực Đông Nam Á, dự kiến đến năm 2030, nền kinh tế số sẽ mở rộng hơn hiện tại gấp 11 lần, sự tăng trưởng này sẽ diễn ra đồng đều ở tất cả các ngành, như thương mại điện tử, logistics, du lịch, TCNH. Mặc dù đại dịch COVID-19 gây thiệt hại nặng nề trong hầu hết lĩnh vực, nhưng đây lại là yếu tố thúc đẩy doanh nghiệp thay đổi để ứng phó trước những thách thức trước mắt và lâu dài. Báo cáo của IDC & Backbase năm 2021 cho thấy, khoảng 44% trong số 250 ngân hàng lớn nhất khu vực châu Á - Thái Bình Dương sẽ làm việc trên các nền tảng hiện đại, cho phép kết nối dữ liệu thông qua các cổng API và 60% ngân hàng sẽ ứng dụng các công nghệ về AI/ML (Machine Learning) cho việc ra quyết định của mình(5). Để đối mặt với những thay đổi này, thị trường lao động, giáo dục và các chính sách của nhà nước cần được điều chỉnh để thúc đẩy người lao động nâng cao kỹ năng thích ứng, di chuyển lao động, các chương trình đào tạo chuyên nghiệp và hỗ trợ lao động.

Nhu cầu nhân lực ngành tài chính, ngân hàng của Việt Nam trong nền kinh tế số

Chuyển đổi số chính là bước đà giúp các doanh nghiệp thích nghi, phục hồi và phát triển trong tương lai. Nguồn nhân lực ngành TCNH tại Việt Nam không tránh khỏi những tác động của số hóa xuất phát từ những vấn đề kinh tế vĩ mô, như sự phát triển của thị trường lao động, việc làm, tiền lương, bất bình đẳng xã hội,... Nhưng tựu trung lại, bài toán nhân sự của ngành TCNH của Việt Nam vẫn xoay quanh hai vấn đề “vừa thừa, vừa thiếu” trong bối cảnh mới.

Nhu cầu tuyển dụng tăng đối với nguồn nhân lực cấp cao.

Do yêu cầu chuyển đổi số, các tổ chức TCNH sẽ xuất hiện ngày càng nhiều nhu cầu về những vị trí việc làm đòi hỏi sự thích nghi với công nghệ và nhân lực ở trình độ cao. Điều này có thể dẫn đến nguy cơ thiếu hụt nhân lực cấp cao trong ngành TCNH. Tại các quốc gia Đông Nam Á, trong đó có Việt Nam cũng như toàn thế giới, việc giữ chân và thu hút nhân tài kỹ thuật chất lượng cao được coi là một trong những thách thức phổ biến nhất mà các ngân hàng và tổ chức tài chính phải đối mặt. Nhân sự về kỹ thuật tại các doanh nghiệp tài chính công nghệ hay các ngân hàng hiện được tìm kiếm nhiều nhất không phải những vị trí nhân viên truyền thống mà giờ đã chuyển sang các vị trí mới, bao gồm các nhà khoa học dữ liệu, kỹ sư tài chính và lập trình viên máy tính. Khoảng 60% tổ chức TCNH tại các quốc gia Đông Nam Á (trong đó có Việt Nam) được khảo sát đồng ý rằng, hiện đang thiếu hụt nhân sự kỹ thuật công nghệ cần thiết. Đa số nhận thấy sự thiếu hụt về kỹ năng công nghệ và phần mềm quản lý sản phẩm, kỹ năng bán hàng và tiếp thị bằng hình thức điện tử. Việc giữ chân và thu hút nhân tài tại những vị trí việc làm mới như kỹ thuật chất lượng cao được coi là một trong những thách thức phổ biến nhất mà các tổ chức tài chính công nghệ phải đối mặt. Đa số các tổ chức tài chính công nghệ (61%) đã thuê nhân sự nước ngoài, hầu hết dựa vào các kết nối cá nhân (57%) và qua trung gian tư vấn (43%). Riêng với lĩnh vực TCNH, Việt Nam hiện nay đang phải chịu áp lực trong việc thu hút nguồn nhân lực có trình độ kỹ thuật công nghệ cao và nguy cơ dịch chuyển nguồn nhân lực chất lượng cao sang các tổ chức tín dụng nước ngoài. Nhu cầu nhân sự các cấp cho các vị trí công nghệ thông tin, chuyển đổi số vẫn tiếp tục tăng cao, đặc biệt là các vị trí phát triển ứng dụng, phát triển công nghệ, quản trị chuyển đổi, quản trị và phân tích dữ liệu, marketing và kinh doanh trên nền tảng số(6). Theo Navigos Search năm 2022, do đang tập trung phát triển dịch vụ số hóa nên nhu cầu tuyển dụng các vị trí cấp trung và cấp cao của ngành TCNH ở Việt Nam trong quý IV-2022 tại các vị trí liên quan cũng tăng lên, cụ thể là các vị trí: Phân tích dữ liệu, phát triển kinh doanh dịch vụ ngân hàng số, phân tích trải nghiệm khách hàng và mảng công nghệ thông tin. Trong toàn hệ thống, hiện nay mới chỉ có khoảng 10 - 15% nhân sự cấp cao làm việc tại các hội sở, có năng lực khoa học - công nghệ trình độ cao, các chuyên gia TCNH có bằng cấp quốc tế, chủ yếu hoạt động trong các mảng quản trị rủi ro, quản lý và đầu tư(7). Nhóm nhân sự này hiện nay đang thiếu rất nhiều do TCNH là một ngành mang tính đặc thù nên các tổ chức vẫn ưu tiên tuyển dụng nhân sự từ ngành này trước. Tuy nhiên, nguồn ứng viên trong nước vẫn chưa được đào tạo và có trình độ như kỳ vọng, đặc biệt là về công nghệ tài chính.

Xu thế chuyển đổi số của các ngân hàng đang tạo ra những thay đổi to lớn về lực lượng lao động.

Tuy đã có những chính sách thu hút, đãi ngộ nhân tài trong và ngoài nước khá hấp dẫn, nhưng nhân sự lĩnh vực công nghệ thông tin và tài chính công nghệ trong các tổ chức TCNH vẫn đang khan hiếm. Ở Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh, nhu cầu chuyên gia về ngân hàng số, dữ liệu kinh doanh, cùng với yêu cầu hiểu biết về học máy (machine learning), lập trình tài chính (financial programming), trí tuệ nhân tạo,... luôn tăng, như vị trí giám đốc tài chính (CFO), trưởng phòng quản lý giá thành với mức lương khá cao gần 400 triệu/tháng, nhưng vẫn rất khó để tuyển dụng.

Dự báo đến 2025, nhu cầu nhân lực cấp cao ngành TCNH sẽ tăng khoảng 20%/năm, trong đó, trình độ đại học trở lên, cao đẳng chiếm tỷ lệ 80,4% nhu cầu tuyển dụng. Xu thế chuyển đổi số của các ngân hàng đang tạo ra những thay đổi to lớn về lực lượng lao động trong lĩnh vực này. Theo khảo sát của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam năm 2022, 95% ngân hàng đã và đang xây dựng, triển khai chiến lược chuyển đổi số. Nhiều ngân hàng đã triển khai các bộ phận chuyên trách thực hiện các nhiệm vụ chuyển đổi số, sáng kiến đổi mới sáng tạo, như Trung tâm chuyển đổi số của Ngân hàng Thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank), Trung tâm Ngân hàng số của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển (BIDV), một số ngân hàng không thành lập bộ phận chuyên trách mà tích hợp luôn nhiệm vụ chuyển đổi số với trung tâm công nghệ thông tin, như Ngân hàng Thương mại cổ phần Công thương Việt Nam (Vietinbank). Ngân hàng Thương mại cổ phần Quân đội (MB) đặt mục tiêu trở thành doanh nghiệp công nghệ và xác định đến năm 2024, nhân sự công nghệ sẽ chiếm tới 25% nhân sự toàn ngân hàng, trở thành lực lượng chủ chốt, giúp MB mở rộng quy mô, 49% các ngân hàng trả lời cho biết mức độ số hóa nghiệp vụ quản lý nhân sự của mình là trên 50%(8). Hiện đại hóa hệ thống thanh toán các dịch vụ, phương tiện thanh toán mới, hiện đại dựa trên ứng dụng khoa học - công nghệ - viễn thông phát triển mạnh, tạo thêm kênh thanh toán mới, thuận tiện và đem lại nhiều lợi ích cho người tiêu dùng.

Cuối năm 2022, Việt Nam có khoảng 76 ngân hàng triển khai dịch vụ thanh toán qua internet và trên 41 ngân hàng cung ứng dịch vụ thanh toán qua điện thoại di động. Số lượng giao dịch năm 2022 thông qua internet là 255 triệu lượt, tương ứng 16 triệu tỷ đồng, tăng 33,6% so với cuối năm 2021. Nắm bắt xu thế phát triển công nghệ thanh toán trên thế giới, một số ngân hàng đã nghiên cứu, hợp tác, ứng dụng công nghệ mới, hiện đại vào hoạt động thanh toán trên thiết bị di động thông qua áp dụng sinh trắc học (vân tay, khuôn mặt, giọng nói), mã phản hồi nhanh (QR Code), công nghệ mã hóa thông tin thẻ (tokenization), thanh toán phi tiếp xúc, công nghệ mPOS,... Bên cạnh đó, để hỗ trợ cho việc phát triển hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã cấp phép cho 26 tổ chức không phải là ngân hàng thực hiện cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán nhằm phục vụ các giao dịch thanh toán bán lẻ, giá trị thấp. Kết cấu hạ tầng và công nghệ phục vụ thanh toán không dùng tiền mặt tiếp tục được đầu tư để nâng cao chất lượng và hiệu quả dịch vụ; công tác bảo đảm an ninh, an toàn hệ thống thẻ, thanh toán điện tử ngày càng được chú trọng. Đối với việc thực hiện Quyết định số 06/QĐ-TTg, ngày 6-1-2022, của Thủ tướng Chính phủ, “Về phê duyệt Đề án phát triển ứng dụng dữ liệu về dân cư, định danh và xác thực điện tử phục vụ chuyển đổi số quốc gia giai đoạn 2022 - 2025, tầm nhìn đến năm 2030”, đến nay, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã hoàn thành thử nghiệm kỹ thuật kết nối Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư phục vụ công tác phòng, chống rửa tiền, thông tin tín dụng và dịch vụ công Ngân hàng Nhà nước Việt Nam; phối hợp với Bộ Công an và Bộ Thông tin và Truyền thông hoàn thành kiểm tra, đánh giá an toàn an ninh hệ thống dịch vụ công và gửi hồ sơ đăng ký khai thác khi kết nối chính thức.

Xu thế chuyển đổi số của các ngân hàng đang tạo ra những thay đổi to lớn về lực lượng lao động_Nguồn: Tư liệu

Bên cạnh đó, hầu hết tổ chức tín dụng đã, đang hoặc dự tính xây dựng, triển khai Chiến lược chuyển đổi số; tích cực ứng dụng các công nghệ của Cách mạng công nghiệp lần thứ tư nhằm tối ưu hóa, đơn giản hóa quy trình nghiệp vụ, nâng cao hiệu quả hoạt động và trải nghiệm giao dịch khách hàng trong hoạt động thanh toán. Số liệu từ Ngân hàng Nhà nước (năm 2023) cho thấy, kết cấu hạ tầng kỹ thuật và công nghệ phục vụ thanh toán không dùng tiền mặt, nhất là thanh toán điện tử trong năm qua tiếp tục được chú trọng đầu tư, mở rộng, nâng cao chất lượng, phát huy hiệu quả, đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của người dân, doanh nghiệp và toàn xã hội. Trong 3 tháng đầu năm 2023 so với cùng kỳ năm 2022, số lượng giao dịch qua Hệ thống thanh toán điện tử liên ngân hàng tăng 8,55% về giá trị; số lượng giao dịch qua Hệ thống chuyển mạch tài chính và bù trừ điện tử tăng 70,77% về số lượng và tăng 18,55% về giá trị. Đến cuối tháng 3-2023, toàn thị trường có 21.347 máy ATM và có 430.625 máy POS; tăng tương ứng 3,88% và 26,34% so với cùng kỳ năm 2022. Số lượng giao dịch qua POS tăng 37,57% về số lượng và tăng 32,09% về giá trị, giao dịch qua ATM tiếp tục giảm 2,37% về số lượng và giảm 4,02% về giá trị cho thấy xu hướng dịch chuyển từ rút tiền mặt sang thanh toán không dùng tiền mặt. Tỷ lệ người dân có tài khoản ngân hàng đạt 74,63%, giao dịch thanh toán không dùng tiền mặt tăng 53,51% về số lượng; qua internet tăng 88,11% về số lượng và 7,43% về giá trị; qua kênh điện thoại di động tăng 65,55% về số lượng và 13,31% về giá trị; qua phương thức QR code tăng 160,71% về số lượng và 43,84% về giá trị; tổng số tài khoản Mobile-Money được đăng ký và sử dụng là hơn 3,71 triệu tài khoản với gần 8,88 nghìn điểm kinh doanh được thiết lập, 15,3 nghìn đơn vị chấp nhận thanh toán(9). Ngân hàng Nhà nước Việt Nam thường xuyên, chủ động theo dõi, chỉ đạo các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán, dịch vụ trung gian thanh toán tăng cường các biện pháp bảo đảm an ninh, an toàn trong hoạt động thanh toán; triển khai các chương trình truyền thông giáo dục kiến thức tài chính, phổ cập toàn diện thông tin, quy định liên quan đến doanh nghiệp, cá nhân nhằm nâng cao kỹ năng sử dụng dịch vụ ngân hàng...

Tốc độ tăng nhân sự thực hiện các công việc thủ công của ngành ngân hàng đang có xu hướng chậm lại, thay thế bằng sự dịch chuyển và đầu tư cho nhân sự số.

Xu hướng công nghệ số đã mang lại nhiều thay đổi quan trọng, mang tính chất quyết định đối với bộ các kỹ năng nền tảng (Core Skill) của ngành ngân hàng. Các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng ngày càng được phát triển phức tạp, số hóa nhiều hơn dẫn đến việc cán bộ ngân hàng phải nâng cao khả năng, kiến thức, trình độ để thích ứng với công nghệ số. Trong kỷ nguyên số hóa ngày nay, một cán bộ ngân hàng cần có khả năng hoạt động độc lập cũng như trong nhóm, khả năng giải quyết vấn đề tốt, linh hoạt, khả năng đưa ra quyết định dựa trên dữ liệu (data-driven decision), hiểu biết về pháp lý và các kỹ năng số, như phân tích dữ liệu, bảo vệ dữ liệu, quản lý dự án, quản lý quy trình,... Do đó, có thể nói, song song với việc sụt giảm nhu cầu nhân sự thực hiện các công việc thủ công có thể được thay thế bởi ứng dụng số hóa nói trên thì ở một góc độ khác, chuyển đổi số cũng đặt ra nhu cầu nhân lực có các kỹ năng chuyển đổi số, có khả năng thích ứng, đổi mới sáng tạo và nhân sự cho các vị trí công việc mới, đó là các nhân sự để nghiên cứu, phát triển nhằm cung ứng các sản phẩm dịch vụ mang tính cá nhân hóa, nâng cao trải nghiệm khách hàng,... cũng như nhân sự về công nghệ, như chuyên gia an ninh mạng, nhà phân tích tín dụng, lập trình viên rô-bốt, kiến trúc sư chuỗi khối và chuyên gia mô hình hóa quy trình.

Một số khuyến nghị chính sách cho Việt Nam

Chuyển đổi số, phát triển kinh tế số được Báo cáo chính trị Đại hội XIII của Đảng đưa vào thành một trong những nhiệm vụ trọng tâm và các đột phá chiến lược trong nhiệm kỳ. Để thực hiện các định hướng, quan điểm và chỉ tiêu đề ra về chuyển đổi số, phát triển kinh tế số, các văn kiện Đại hội XIII của Đảng đã đề ra đồng bộ các nhiệm vụ, giải pháp cụ thể:

Một là, về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Báo cáo chính trị yêu cầu quan tâm tới thể chế cho chuyển đổi số, phát triển kinh tế số, như xây dựng khung khổ pháp luật, môi trường thuận lợi thúc đẩy phát triển, khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, phát triển kinh tế số; hỗ trợ, khuyến khích sự ra đời, hoạt động của những lĩnh vực mới, mô hình kinh doanh mới. Phát triển thị trường hàng hóa, dịch vụ theo phương thức tổ chức, giao dịch văn minh, hiện đại, thương mại điện tử. Phát triển đồng bộ, nâng cao hiệu quả hoạt động của các thị trường tài chính, tiền tệ, thị trường chứng khoán, thị trường bảo hiểm,... trên nền tảng công nghệ số với kết cấu hạ tầng, công nghệ và phương thức giao dịch hiện đại.

Hai là, để tiếp tục đẩy mạnh cơ cấu lại, đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế, phát triển các ngành, lĩnh vực, vấn đề chuyển đổi số, phát triển kinh tế số luôn được xác định là một yêu cầu lớn, một nội dung quan trọng, là mũi nhọn được khuyến khích, ưu tiên phát triển để nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của các ngành, lĩnh vực, của nền kinh tế, phát triển nhanh và bền vững đất nước(10).

Đại hội XIII của Đảng yêu cầu cần tích cực đẩy mạnh cơ cấu lại các ngành dịch vụ dựa trên nền tảng công nghệ hiện đại và công nghệ số, nhất là với các dịch vụ viễn thông và công nghệ thông tin, logistics, vận tải, tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, pháp lý, kế toán, kiểm toán, y tế, giáo dục - đào tạo,... Phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021 - 2025 đề ra nhiệm vụ: “Tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa dựa trên nền tảng của khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và công nghệ của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, trong đó, tập trung phát triển các ngành ưu tiên có mức độ sẵn sàng cao như công nghiệp công nghệ thông tin, điện tử - viễn thông; an toàn, an ninh mạng; công nghiệp chế tạo thông minh; tài chính - ngân hàng; thương mại điện tử; nông nghiệp số; du lịch số; công nghiệp văn hóa số; y tế; giáo dục và đào tạo”(11).

Lĩnh vực TCNH là một trong 8 ngành, lĩnh vực cần được ưu tiên chuyển đổi số theo “Chương trình Chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030”, của Chính phủ. Một số mục tiêu trong quá trình chuyển đổi số lĩnh vực tài chính được đưa ra gồm: Xây dựng tài chính điện tử và thiết lập nền tảng tài chính số hiện đại, bền vững; chuyển đổi số trong các ngân hàng thương mại để cung cấp dịch vụ ngân hàng số theo hướng phát triển đa dạng các kênh phân phối, đổi mới sáng tạo, tự động hóa quy trình, thúc đẩy hợp tác với các doanh nghiệp công nghệ tài chính (Fintech) và trung gian thanh toán trong việc xây dựng hệ sinh thái dịch vụ TCNH.

Các mục tiêu trên có tác động mạnh mẽ tới cấu trúc lao động. Sự chuyển dịch của cấu trúc lao động trong ngành tài chính do tác động của chuyển đổi số thể hiện trên một số khía cạnh: Xuất hiện thêm các vị trí công việc liên quan tới công nghệ; các công việc có tính lặp lại cao sẽ bị thay thế bởi rô-bốt và hệ thống tự động hóa; nhiều vị trí công việc sẽ chuyển hóa, gia tăng hàm lượng công nghệ trong nghiệp vụ, quy trình xử lý. Đối với các cơ quan quản lý dịch vụ TCNH, yêu cầu xây dựng, hoàn thiện khung pháp lý về công nghệ tài chính, các loại dịch vụ tài chính số cũng đòi hỏi nhân sự am hiểu về lĩnh vực, trình độ cao để kịp thời ban hành, điều chỉnh và áp dụng các quy định, chính sách phù hợp. Theo báo cáo của Navigos (năm 2022), ngành TCNH sẽ cần tuyển dụng nhiều nhân lực có kiến thức về công nghệ thông tin (IT) và kỹ năng bán hàng (sales). Các nhân sự giỏi trong lĩnh vực AI, dữ liệu lớn (big data), tiền ảo (crypto) và chuỗi khối (blockchain) sẽ được nhiều doanh nghiệp và tổ chức tài chính ưu tiên tuyển dụng, nhưng sẽ có sự cạnh tranh khốc liệt vì nguồn cung khan hiếm(12).

Để thực hiện mục tiêu trên, cần thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp:

Thứ nhất, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực phù hợp với giai đoạn chuyển đổi số; cần có chính sách, biện pháp phù hợp với sự biến động của môi trường hoạt động mới của ngành TCNH; đổi mới căn bản nền giáo dục, quan điểm và cách tiếp cận đối với chuyển đổi số; nâng cao nhận thức của người lao động về những yêu cầu về kỹ năng, kiến thức đối với lao động trong bối cảnh mới.

Thứ hai, các chương trình giáo dục phổ thông cần chú trọng vào trang bị cho người học kiến thức, kỹ năng liên quan đến các lĩnh vực khoa học - công nghệ, kỹ thuật và toán học (STEM) để có thể áp dụng giải quyết vấn đề trong cuộc sống hằng ngày. Các chương trình, sáng kiến đào tạo về công nghệ thông tin, công nghệ mới cần được Chính phủ triển khai, bồi đắp kỹ năng cho đội ngũ lao động hiện tại.

Thứ ba, phát triển kỹ năng cho người lao động cần được đưa ra thảo luận gắn liền với những cam kết vị trí việc làm, cải thiện tiền lương và thu nhập. Cải cách chính sách về tiền lương, thưởng, để tuyển dụng thu hút nhân tài trong khu vực, có các chương trình hỗ trợ đặc biệt để khuyến khích các doanh nghiệp sử dụng, bồi dưỡng nguồn lao động trong nước.

Thứ tư, cần coi kỹ năng mới về công nghệ TCNH như một động lực then chốt để đạt được mục tiêu trong chuyển đổi số. Xác định được yêu cầu đối với các kỹ năng mới về công nghệ TCNH, rút ngắn khoảng cách cung - cầu thông qua sự hợp tác giữa các cơ sở giáo dục nghề nghiệp, các trường đại học với doanh nghiệp.

Thứ năm, tiếp tục nâng cao vai trò của các cơ quan quản lý trong việc thúc đẩy và khuyến khích đổi mới tư duy, linh hoạt và có lợi cho việc bồi dưỡng nhân tài; khuyến khích xây dựng năng lực và kỹ năng cho nhân viên quản lý; vận động cho cộng đồng học thuật cung cấp các khóa học về chuyển đổi số lĩnh vực TCNH, kỹ năng số cho người lao động ngành TCNH, có kế hoạch đào tạo, tuyển dụng phù hợp với chuyển đổi số./.

-----------------------------

(1) Một số mục tiêu gồm: Xây dựng tài chính điện tử và thiết lập nền tảng tài chính số hiện đại, bền vững; chuyển đổi số trong các ngân hàng thương mại để cung cấp dịch vụ ngân hàng số theo hướng phát triển đa dạng các kênh phân phối, đổi mới sáng tạo, tự động hóa quy trình, thúc đẩy hợp tác với các doanh nghiệp công nghệ tài chính (fintech) và trung gian thanh toán trong việc xây dựng hệ sinh thái dịch vụ tài chính, ngân hàng
(2) Xem: D.H. Autor & M.J. Handel: Putting tasks to the test: “Human capital, job tasks, and wages” (Tạm dịch: Đưa các nhiệm vụ vào thử nghiệm: Vốn con người, nhiệm vụ công việc và tiền lương), Journal of labor Economics (Tạp chí Kinh tế lao động), 31(S1), S59-S96, 2013
(3) OECD: “Labour Market Situation Report” (Tạm dịch: Báo cáo tình hình thị trường lao động), ngày 13-4-2023
(4) Google & Temasek/Bain: “E-Conomy SEA 2019 - Swipe up and to the right: Southeast Asia’s $100 billion Internet economy. Google & Temasek/Bain” (Tạm dịch: Nền kinh tế internet trị giá 100 tỷ USD của Đông Nam Á), ngày 3-10-2019
(5) IDC & Backbase: “Fintech and Digital Banking 2025 Report” (Tạm dịch: Báo cáo Fintech và Ngân hàng số 2025), 2021, https://www.backbase.com/fintech-and-digital-banking-2025/
(6) Ernst & Young: “ASEAN Fintech census” (Tạm dịch: Cuộc điều tra Fintech ASEAN), 2018
(7) Xem: Navigos: Báo cáo nhu cầu tuyển dụng nhân sự cấp trung và cấp cao tại thị trường Việt Nam quý II-2022 và dự báo nhu cầu tuyển dụng trong quý III-2022, ngày 28-7-2022, https://navigossearch.com
(8) An Nhiên: “MB hướng tới mục tiêu trở thành doanh nghiệp công nghệ”, Báo Điện tử Vnexpress, ngày 4-11-2021, https://vnexpress.net/mb-huong-toi-muc-tieu-tro-thanh-doanh-nghiep-cong-nghe-4381219.html
(9) Nhuệ Mẫn: “Thói quen thanh toán, chi trả không dùng tiền mặt ngày được nâng cao”, Đầu tư chứng khoán (chuyên trang của Báo Đầu tư), ngày 26-5-2023, https://www.tinnhanhchungkhoan.vn/thoi-quen-thanh-toan-chi-tra-khong-dung-tien-mat-ngay-duoc-nang-cao-post322366.html
(10) Nghị quyết số 52-NQ/TW, ngày 27-9-2019, của Bộ Chính trị, “Về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư”
(11) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. II, tr. 104 – 105
(12) Navigos: Khảo sát lương năm 2022: Thực trạng thu nhập và kỳ vọng của người lao động, ngày 5-4-2022, https://navigossearch.com