Vai trò quan trọng của chính sách tiền tệ trong điều hành kinh tế vĩ mô

Nguyễn Đắc Hưng PGS, TS, Phó Tổng Biên tập Tạp chí Ngân hàng
20:02, ngày 05-12-2012
TCCS - Hiện nay, hoạt động của doanh nghiệp đang gặp rất nhiều khó khăn, và các nguyên nhân, giải pháp về tiền tệ, hoạt động ngân hàng lại được bàn đến nhiều nhất. Nhiều đề xuất được đưa ra và đã có định hướng cần phải đánh giá tác động của chính sách sách tiền tệ đến nền kinh tế thời gian qua cũng như hiện nay.

Tác động của việc điều hành chính sách tiền tệ đến kinh tế vĩ mô

Từ năm 2008 đến nay, kinh tế thế giới nói chung và kinh tế trong nước nói riêng diễn biến hết sức phức tạp. Cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ bắt nguồn từ khủng hoảng tín dụng thứ cấp tại Mỹ xảy ra từ nửa cuối năm 2008 tác động mạnh mẽ đến nền kinh tế toàn cầu; khủng hoảng nợ công ở châu Âu chưa có dấu hiệu dừng lại; giá cả các mặt hàng chủ chốt trên thị trường thế giới, như dầu thô, lương thực, thực phẩm, vàng,... biến động khó lường. Tình hình đó tác động trực tiếp, nhiều mặt đến diễn biến kinh tế vĩ mô trong nước, đòi hỏi điều hành chính sách tiền tệ phải rất linh hoạt.

Từ đầu quý IV - 2010 đến đầu năm 2012, chính sách tiền tệ được điều hành theo hướng chặt chẽ, chủ động và linh hoạt. Bên cạnh việc Ngân hàng Nhà nước (NHNN) điều chỉnh các loại lãi suất theo hướng tăng, thì một số chính sách khác, như hạn mức tăng trưởng tín dụng nói chung và giới hạn tỷ lệ dư nợ cho vay phi sản xuất, trực tiếp là chứng khoán và bất động sản, được áp dụng. Các biện pháp khác về điều hành tỷ giá, quản lý ngoại tệ, quản lý thị trường vàng, cho vay,... cũng được thực thi, hỗ trợ hiệu quả cho thực hiện mục tiêu điều hành chính sách tiền tệ. Việc điều hành chính sách tiền tệ như trên đã tác động đến kinh tế vĩ mô ở những điểm chính sau:

Thứ nhất, lạm phát được kiềm chế có hiệu quả, song vẫn bảo đảm tăng trưởng kinh tế ở mức khá.

Năm 2011, chỉ số CPI là 18,15%, còn  GDP tăng 5,85%; chỉ số CPI 5 tháng đầu năm 2012 tăng 2,78%. Trong quý I - 2012, tăng trưởng kinh tế ở mức 4%, sang quý  II - 2012 dự báo là 4,5%.

Điều đáng chú ý là, tốc độ tăng lạm phát giảm dần và giảm chắc chắn. Chỉ số CPI giảm liên tục từ tháng 3-2012 cho đến nay và có tốc độ tăng thấp nhất so với cùng kỳ các năm trước: CPI tháng 1 tăng 1%, tháng 2 tăng 1,37%, tháng 3 tăng 0,16%, tháng 4 tăng 0,05%, tháng 5 tăng 0,18%. So với tháng 12-2011, CPI tháng 5-2012 tăng 2,78%, thấp nhất trong 3 năm qua. Nhưng quan trọng nhất là NHNN đã neo được sự kỳ vọng lạm phát. Kỳ vọng lạm phát đã được kiểm soát tốt với dự kiến CPI khoảng 7% - 8% trong năm nay. Đó mới là điều quan trọng và cần thiết cho điều hành chính sách tiền tệ quốc gia.

Bên cạnh đó, thị trường vàng và ngoại tệ dần đi vào ổn định. Nếu như năm 2011 giá vàng tăng 24,09%, thì 5 tháng đầu năm 2012 lại giảm tới 2,71%. Tỷ giá USD/VND năm 2011 tăng 2,24% nhưng 5 tháng đầu năm 2012 chỉ tăng 0,06%.

Việc kiềm chế lạm phát có hiệu quả, ổn định giá trị đồng Việt Nam có tác động tốt đến việc ổn định thị trường vàng và ngoại tệ. Và ngược lại, kiểm soát tốt và ổn định thị trường vàng, ngoại tệ có tác động tích cực đến kiềm chế lạm phát. Đành rằng, có một nhân tố khách quan là giá vàng thế giới giảm và ổn định, tạo tiền đề cho ổn định giá vàng trong nước, song, bằng những biện pháp điều hành kiên quyết và phù hợp, không thể phủ nhận nhân tố chủ quan về cơ chế, chính sách, giải pháp cụ thể của NHNN đóng vai trò rất quan trọng.

Việc điều hành công cụ của chính sách tiền tệ đã tạo khoảng cách chênh lệch khá xa giữa lãi suất tiền gửi ngoại tệ và tiền gửi nội tệ: trần lãi suất tiền gửi USD là 2% so với trần lãi suất VND 14%, 13%, 12%, 11% và 9%/năm, đã tạo ra động lực kinh tế thực sự góp phần thúc đẩy sự lựa chọn của đông đảo người dân chuyển đổi từ USD sang gửi tiết kiệm VND. Mặc dù lãi suất tiền gửi tiết kiệm giảm liên tục tới 4 lần trong hơn 2 tháng qua, nhưng tổng dư tiền gửi của khách hàng tại các tổ chức tín dụng đến hết tháng 5-2012 tăng khoảng 5,42% so với cuối năm 2011. Đây cũng là những mức khá cao so với diễn biến trong cùng kỳ so sánh ở năm 2011 (đến cuối tháng 5-2011 huy động vốn chỉ tăng 1,4%).

Đồng thời với việc mở rộng diện dự trữ bắt buộc bằng ngoại tệ đối với các tổ chức tín dụng (TCTD), những sửa đổi, bổ sung và cơ chế, chính sách quản lý ngoại hối, điều hành tỷ giá đã tạo sự thay đổi lớn về quan hệ cung cầu ngoại tệ trên thị trường, tác động tích cực đến cả xuất khẩu, nhập khẩu, vay nợ nước ngoài, đầu cơ ngoại tệ. Không những vậy, còn tạo điều kiện cho NHNN từ cuối năm 2011 đến nay mua thêm được 9 tỷ USD bổ sung cho quỹ dự trữ ngoại hối của Nhà nước. Hơn thế, tình trạng đô-la hóa nền kinh tế được hạn chế.

Nếu như các năm: 2008, 2009, 2010 và năm 2011, tỷ giá không ổn định, thậm chí có đánh giá cho rằng lúc nào cũng “mong manh”, năm 2009 tăng tới 10,7% và năm 2010 tăng 9,68%, nhưng từ quý IV năm 2011 đến nay tỷ giá ổn định, lòng tin vào đồng Việt Nam tăng thêm. Trước đó, các tổ chức quốc tế lo lắng, nhưng hiện tại đưa mức đánh giá tín nhiệm Việt Nam đồng duy trì ở mức B+(1), dự trữ ngoại hối của Việt Nam cũng tăng lên, cán cân tổng thể thanh toán quốc tế quý I dư 5 tỷ USD, dự báo quý II, mặc dù không đạt được như quý I, nhưng vẫn có đà thặng dư.

Thứ hai, góp phần sàng lọc các doanh nghiệp hoạt động kém hiệu quả.

Triển khai thực hiện chính sách tiền tệ chặt chẽ, NHNN tăng cao các loại lãi suất chủ đạo, khống chế hạn mức tín dụng,... Đông đảo dư luận, kể cả các nhà nghiên cứu, nhiều chuyên gia cũng cho rằng nhiều doanh nghiệp sẽ hết sức khó khăn, nhất là các doanh nghiệp dựa chủ yếu vào vốn vay ngân hàng, doanh nghiệp đầu cơ, quản trị điều hành yếu, chiến lược kinh doanh không phù hợp. Do đó, không ít doanh nghiệp bị giải thể, ngừng hoạt động trong năm 2011 và 5 tháng đầu năm 2012, trước hết là quy luật bình thường của sự phát triển, của sự chuyển động trong nền kinh tế, nhưng cũng có một phần do tác động của chính sách tiền tệ chặt chẽ. Tác động này đã được dự báo trước.

Bên cạnh đó, triển khai thực hiện chính sách tiền tệ chặt chẽ, Thống đốc NHNN đã tuyên bố và đông đảo dư luận đồng tình chính sách này sẽ làm giảm tổng cầu trong nền kinh tế. Tác động của chính sách tiền tệ thường có độ trễ nhất định, thông thường từ 6 tháng đến 1 năm. Vì vậy, đến nay, do tác động của chính sách tiền tệ chặt chẽ, do tác động của chính sách tài khóa thắt chặt, cắt giảm đầu tư công, khủng hoảng tài chính tại Mỹ và khủng hoảng nợ công tại châu Âu cùng một số yếu tố khác, nên lượng hàng tồn kho của doanh nghiệp tăng lên là hệ quả tất yếu. Chính bản thân doanh nghiệp cần chủ động dự báo trước tác động này để có kế hoạch sản xuất và tiêu thụ phù hợp.

Thứ ba, điều chỉnh cơ cấu nền kinh tế.

Cùng với lãi suất, hạn mức tín dụng được áp dụng đối với việc giảm dư nợ cho vay lĩnh vực phi sản xuất, nhất là lĩnh vực bất động sản, chứng khoán. Với tỷ trọng trong tổng dư nợ của mỗi TCTD giảm xuống còn 22% hết tháng 6-2011 và 16% hết năm 2011. Do đó, các doanh nghiệp hạn chế đầu tư, đầu cơ vào lĩnh vực bất động sản, trực tiếp là các dự án chung cư, khu đô thị,... khi mà tình trạng đầu cơ quá lớn, cung vượt quá cầu tiêu dùng thực sự và cầu có khả năng thanh toán. Đây là sự tác động điều chỉnh tích cực đối với nền kinh tế. Sự điều chỉnh này còn tác động đến lĩnh vực có liên quan, như lượng sắt thép, xi-măng,... tồn kho tăng đáng kể. Nguyên nhân chính là các doanh nghiệp đầu tư quá lớn, chạy đua mở rộng và xây dựng nhà máy trong lĩnh vực này, đồng thời có nguyên nhân gián tiếp của việc điều hành chính sách tiền tệ theo hướng hạn chế cho vay lĩnh vực bất động sản. Do đó, sự tác động của chính sách tiền tệ theo hướng nói trên là phù hợp theo mục tiêu của chính sách.

Bên cạnh đó, trong điều hành chính sách tiền tệ, vốn đầu tư được khuyến khích cho vay đối với khu vực nông nghiệp - nông thôn, sản xuất hàng xuất khẩu, công nghiệp hỗ trợ, doanh nghiệp nhỏ và vừa sử dụng nhiều lao động. Việc điều hành hướng tới sự tác động đến các lĩnh vực này không chỉ ở việc giới hạn trần lãi suất cho vay tối đa đồng Việt Nam ở các mức: 15%/năm, 14,5%/năm, 13%/năm mà còn ở việc sử dụng các công cụ trong điều hành chính sách tiền tệ, như mở rộng cho vay tái cấp vốn, giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với các TCTD cho vay nông nghiệp - nông thôn. Các ngân hàng thương mại (NHTM) đưa ra các chương trình ưu tiên lãi suất và vốn cho lĩnh vực sản xuất và thu mua hàng xuất khẩu,...

Thứ tư, góp phần cải thiện khả năng thanh khoản của hệ thống ngân hàng thương mại.

Cuối quý IV-2011 và đặc biệt là trong tháng 12-2011, thanh khoản của các NHTM rất khó khăn. Nhưng hiện nay, thanh khoản hệ thống đã được củng cố và cải thiện rất tích cực. Để bảo đảm thanh khoản cho các NHTM, từ cuối năm 2011 đến tháng 5-2012, NHNN đã mua vào 9 tỷ USD, cung ứng ra thị trường là 180.000 tỷ đồng. Ngoài ra, trong tháng 2-2012, NHNN đã “bơm” ra 60.000 tỷ đồng cho một số NHTM để phục vụ cho vay các chương trình nông nghiệp và nông thôn. Đó là chưa kể, cuối năm 2011, để hỗ trợ các NHTM có nguy cơ mất khả năng thanh khoản, NHNN đã “bơm” ra thị trường 30.000 tỷ đồng.

Thanh khoản được cải thiện nhưng khả năng hấp thụ vốn của nền kinh tế rất yếu, tiềm ẩn nhiều rủi ro tín dụng bởi dư nợ xấu gia tăng. Nhằm bảo đảm an toàn vốn, các NHTM đã chủ động, linh hoạt chuyển dịch dòng tiền tín dụng sang các kênh đầu tư, kinh doanh an toàn hơn trong một số tháng gần đây, như mua trái phiếu chính phủ và tín phiếu của NHNN, thay vì tăng trưởng dư nợ. Cụ thể, trái phiếu chính phủ đã phát hành thành công 30.000 tỷ đồng, tín phiếu NHNN là 45.000 tỷ đồng và tiền gửi của các TCTD tại NHNN đạt 60.000 tỷ đồng, cao hơn tiền gửi dự trữ bắt buộc 15.000 - 20.000 tỷ đồng.

Bảo đảm thực hiện có hiệu quả hơn nữa chính sách tiền tệ trong thời gian tiếp theo

Một là, phân tích, đánh giá về nguyên nhân lạm phát ở nước ta thời gian qua.

Nguyên nhân lạm phát của nền kinh tế nước ta là do nhiều yếu tố khác nhau, chứ không phải riêng vấn đề tiền tệ, gây sức ép quá lớn về mặt dư luận lên điều hành chính sách tiền tệ.

Trong các năm 2010-2011 diễn biến của thị trường thế giới rất phức tạp, giá dầu thô, giá lương thực, thực phẩm, đều tăng cao cộng với việc điều chỉnh tỷ giá USD/VND ở mức lớn, làm cho giá các mặt hàng xuất khẩu, mặt hàng nhập khẩu khi tính ra Việt Nam đồng tăng theo. Đối với nguyên, nhiên, vật liệu, linh kiện, phụ kiện, phụ liệu, phụ tùng,... nhập khẩu sẽ làm tăng chi phí đầu vào, làm tăng giá thành chi phí, dẫn đến tăng giá bán ra. Các mặt hàng thu mua cho xuất khẩu, như lúa gạo, cao-su, hạt điều, cà-phê, thủy, hải sản,... cũng tăng khá, người sản xuất được lợi, khuyến khích sản xuất phát triển. Như vậy từ góc độ này có thể thấy, đó là nguyên nhân nhập khẩu lạm phát, do lạm phát chi phí đẩy, do cầu kéo.

Giá vàng thế giới tăng mạnh, tới trên 64% năm 2009 và hơn 30% năm 2010, giá vàng trong nước cũng biến động cùng chiều, tác động rất lớn đến tâm lý người dân, tạo sức ép lớn về ổn định tiền tệ và tỷ giá.

Về tiền tệ, cần thấy cả hai góc độ chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa, trực tiếp là thâm hụt ngân sách, do sử dụng ngân sách còn nhiều vấn đề đặt ra, do đầu tư công kém hiệu quả.

Từ góc độ chính sách tiền tệ, cần thấy rằng, việc tăng dư nợ quá lớn ở lĩnh vực phi sản xuất của các NHTM, nhất là vốn cho vay bị cuốn hút vào lĩnh vực bất động sản không được chủ động kiểm soát ngay từ đầu. Song từ góc độ chính sách, có thể thấy việc quản lý thị trường bất động sản bị buông lỏng, các dự án xây dựng sân bay, bến cảng, khu công nghiệp, khu đô thị, khu kinh tế, dự án nhà ở,... được triển khai dồn dập ở các địa phương đã “hút” một lượng vốn tín dụng ngân hàng không nhỏ. Vốn tín dụng ngân hàng đang phát sinh nợ đọng, nợ xấu trong lĩnh vực này ngày càng tăng lên.

Chính sách thương mại để tình trạng thâm hụt cán cân xuất nhập khẩu ở mức lớn và kéo dài, tạo sức ép lên tỷ giá và điều hành chính sách tiền tệ. Bên cạnh đó, việc quản lý các tập đoàn, tổng công ty nhà nước có nhiều yếu kém, điển hình là Vinashin, Vinalines,... vốn sử dụng kém hiệu quả và thất thoát, đang làm phát sinh nhiều khoản nợ xấu đối với các NHTM.

Hai là, xác định mức độ phù hợp trong quá trình điều hành chính sách tiền tệ.

Thắt chặt tiền tệ để kiềm chế lạm phát cần xác định mức độ phù hợp. Sử dụng công cụ lãi suất có tính chất truyền thống để thắt chặt tiền tệ cũng cần xác định mức độ hợp lý. Việc sử dụng quá nhiều biện pháp và công cụ nhằm thắt chặt tiền tệ cần được cân nhắc để tránh tác động méo mó đến thị trường tiền tệ và tình trạng bị động cho hoạt động của NHTM.

Nền kinh tế Việt Nam đang tiếp tục hội nhập sâu rộng với thị trường quốc tế và khu vực, chính sách tiền tệ còn phải thực hiện đa mục tiêu và còn chịu nhiều sức ép dư luận trong quá trình điều hành, sự phối hợp giữa các chính sách kinh tế vĩ mô chưa phải thường xuyên đạt được sự kỳ vọng. Vì vậy, điều hành chính sách tiền tệ đạt được mục tiêu như phân tích thể hiện sự tác động nói trên là một thành công đáng ghi nhận.

Về mặt nguyên lý, cũng như thực tiễn, mục tiêu cao nhất của chính sách tiền tệ là kiểm soát lạm phát đã đạt được, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội; mục tiêu trung gian là các khối tiền trong lưu thông, trực tiếp là cung tiền M2(2) đã thấy rõ; mục tiêu hoạt động là dự trữ của NHTM và lãi suất ngắn hạn, trực tiếp là lãi suất cho vay qua đêm, lãi suất trên thị trường liên ngân hàng đã chịu tác động tức thời. Thanh khoản của các NHTM, nhất là các NHTM có nhiều khó khăn, mặc dù có những thời điểm căng thẳng nhưng về cơ bản được bảo đảm. Lãi suất ngắn hạn đang giảm xuống và xu hướng đường cong lãi suất đang xuất hiện.

Nhưng thực tiễn ở nước ta thời gian qua cũng cho thấy, phương pháp tính lạm phát, đánh giá nguyên nhân lạm phát và công bố lạm phát cần được tiếp tục hoàn thiện theo hướng hội nhập. Việc điều hành các công cụ chính sách tiền tệ cần linh hoạt hơn nữa; cần tiếp tục giảm các biện pháp hành chính. Đẩy nhanh tiến trình cơ cấu lại các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước và đổi mới nhận thức về hoạt động tiền tệ, ngân hàng trong cơ chế thị trường. Đánh giá khách quan, đầy đủ việc điều hành các chính sách kinh tế vĩ mô khác. Đó là các nhân tố hết sức cần thiết, bảo đảm chính sách tiền tệ được thực thi có hiệu quả và thành công hơn nữa trong thời gian tới./.

--------------------------------------------

(1) Là mức ổn định, theo tiêu chí xếp hạng của Fitch Ratings - một trong ba tổ chức đánh giá tín nhiệm lớn nhất thế giới hiện nay

(2) Lượng cung cấp tiền tệ trong nền kinh tế, gồm tổng lượng tiền mặt và tiền các ngân hàng thương mại gửi tại ngân hàng cộng với lượng tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn