TCCS - Bằng mô hình liên kết trồng cao-su với các hộ dân, Nông trường Cao-su Cư Mgar góp phần cùng với địa phương phủ xanh đất trống, đồi trọc, tái tạo độ che phủ rừng bằng cây cao-su, cải thiện môi trường sinh thái, giải quyết công ăn việc làm cho các hộ dân, nhất là hộ đồng bào dân tộc thiểu số tại chỗ, thực hiện mục tiêu xóa đói, giảm nghèo, xây dựng bộ mặt nông thôn vùng trồng cao-su không ngừng phát triển.

Nông trường Cao-su Cư Mgar, đơn vị trực thuộc Công ty Cao-su Đắc Lắc, đứng chân trên địa bàn xã Ea Kpam, huyện Cư Mgar, quản lý 2.666,13 ha cao-su, trong đó: cao-su quốc doanh 1.358,39 ha, cao-su liên kết 1.286,27 ha với 370 hộ dân tham gia.

Thực hiện chủ trương của Đảng ủy, Ban Giám đốc Công ty Cao-su Đắc Lắc, gắn phát triển sản xuất với giúp đỡ, tạo điều kiện thuận lợi cho bà con nông dân, nhất là hộ đồng bào dân tộc thiểu số tại chỗ có công ăn việc làm, có vốn, kỹ thuật và kinh nghiệm trồng và chăm sóc cao-su, tăng thu nhập ổn định đời sống, từ năm 1990, Nông trường Cao-su Cư Mgar triển khai thực hiện mô hình trồng cao-su liên kết trên địa bàn đứng chân. Nông trường phối hợp cùng với lãnh đạo địa phương chọn và ký kết hợp đồng liên kết trồng cao-su với các hộ dân trên địa bàn (những hộ có đất được Nhà nước cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, hoặc được địa phương quy hoạch vùng trồng cao-su nhằm phủ xanh đất trống, đồi trọc và sau đó tiến hành cấp đất lại cho hộ dân). Theo thỏa thuận ký kết, từ khi trồng cho đến khai thác, Nông trường đầu tư vốn, vật tư (bao gồm: cây giống, phân bón hằng năm, chi phí máy từ khâu khai hoang làm đất đến chăm sóc), hướng dẫn khoa học - kỹ thuật trồng cho bà con. Sau khi vườn đưa vào khai thác (khoảng 7 năm kiến thiết cơ bản), từ năm thứ 13 trở đi các hộ liên kết tiến hành trả nợ vốn gốc và lãi vay đầu tư trong thời kỳ kiến thiết cơ bản cho Nông trường bằng sản phẩm mủ quy khô loại I theo tỷ lệ % (tỷ lệ trả nợ này được tăng dần theo năng suất của tuổi cây trong thời kỳ kinh doanh) cho đến năm thứ 27. Mủ cao-su do các hộ dân thu hoạch trong năm được Nông trường mua lại theo giá thỏa thuận từng thời điểm. Khi vườn cây hết chu kỳ khai thác, sản phẩm gỗ cao-su được thanh lý và tỷ lệ thụ hưởng được phân chia hộ nông dân trồng cao-su 60%, Công ty 40%.

Bàn bạc dân chủ, công khai; bảo đảm quyền lợi chính đáng cho các bên, đó là kinh nghiệm để nâng cao hiệu quả của sự hợp tác một cách bền vững.

Để triển khai có hiệu quả mô hình trồng cao-su liên kết với các hộ dân trên địa bàn, ngay từ đầu Nông trường thành lập Ban Chỉ đạo Cao- su ngoài quốc doanh, gồm những cán bộ kỹ thuật có kinh nghiệm, có nhiệm vụ tuyên truyền cho bà con nông dân thấy được lợi ích của việc trồng cao-su liên kết (còn gọi là cao-su tiểu điền), tổ chức tập huấn, hướng dẫn khoa học - kỹ thuật cho bà con tham gia liên kết từ khâu khai hoang làm đất, thiết kế lô thửa đến khâu đào hố, tổ chức trồng mới, trồng dặm lại sau trồng mới, chăm sóc và bảo quản, quản lý vườn cây trong thời kỳ kiến thiết cơ bản, huấn luyện đào tạo thợ cạo mủ cho các hộ dân sau khi vườn cây được đưa vào khai thác.

Thời kỳ đầu, để bà con nông dân, nhất là các hộ đồng bào dân tộc thiểu số hiểu về chủ trương trồng cao-su liên kết hết sức khó khăn. Bà con vốn chưa hiểu biết nhiều về cây cao-su, mặt khác do cây cao-su có thời gian đầu tư kiến thiết cơ bản khá dài (7 - 8 năm), hiệu quả kinh tế giữa cây cao-su thời gian đầu không bằng một số cây trồng khác như cà-phê nên nhiều hộ dân không muốn trồng, thậm chí giai đoạn 1993 - 1997, nhiều nông hộ trồng được 2 - 3 năm, nhưng chặt bỏ, chuyển sang cây trồng khác cho hiệu quả kinh tế cao hơn

Đứng trước tình hình đó, Công ty Cao-su Đắc Lắc cũng như Nông trường thường xuyên phối kết hợp với các cấp chính quyền địa phương tuyên truyền, vận động bà con giữ đất, giữ vườn cây cao-su, đầu tư thâm canh, chăm sóc vườn cây hiện có; tiếp tục vận động các hộ dân liên kết đưa diện tích đất trống đồi trọc vào trồng cao su nhằm tăng nhanh độ rừng che phủ; phân công cán bộ kỹ thuật trong Ban Chỉ đạo bám sát vườn cây, cùng ăn ở với bà con để động viên, hướng dẫn, giúp đỡ, nhất là bà con dân tộc thiểu số tại chỗ trong các công đoạn trồng như: làm đất, thiết kế lô thửa, kỹ thuật đào hố, chọn giống, kỹ thuật trồng và chăm sóc vườn cây, hướng dẫn kỹ thuật trồng xen các loại cây ngắn ngày trong vườn cây cao-su ở giai đoạn kiến thiết cơ bản, hỗ trợ phân bón để các hộ có điều kiện chăm sóc vườn cây, lấy ngắn nuôi dài, ổn định cuộc sống trong thời gian cây cao su chưa đưa vào kinh doanh khai thác mủ... Nhờ đó, số hộ bà con nông dân tham gia liên kết trồng cao-su với Nông trường ngày càng đông. Đến nay, Nông trường Cao-su Cư Mgar liên kết với 370 hộ dân ở 4 xã của huyện Cư Mgar (gồm Cư Mgar, Ea Kpam, Ea Tul và Ea Mdró), trong đó trên 90% số hộ là đồng bào dân tộc thiểu số tại chỗ, với tổng diện tích 1.286,27 ha, bình quân mỗi hộ có 3,48 ha cao-su.

Sau hơn 20 năm thực hiện liên kết cho thấy, mô hình này đem lại hiệu quả kinh tế khá cao, giải quyết việc làm cho bà con nông dân, nâng cao đời sống về mọi mặt, góp phần xóa đói, giảm nghèo, thúc đẩy kinh tế - xã hội địa phương phát triển. Cụ thể, đối với các hộ nông dân tham gia liên kết, trong thời gian vườn cây cao-su còn ở giai đoạn kiến thiết cơ bản, các hộ có điều kiện trồng xen các loại cây ngắn ngày, mặt khác tận dụng nguồn phân bón do Công ty và Nông trường hỗ trợ chăm bón vườn cây cà- phê riêng của gia đình, nhằm lấy ngắn nuôi dài, ổn định cuộc sống gia đình trong thời gian cây cao-su chưa đưa vào khai thác. Khi vườn cho khai thác, thu nhập của bà con nông dân tăng nhanh. Bình quân mỗi hộ nông dân thu nhập từ 150 - 170 triệu đồng/năm. Nhờ thu nhập ổn định từ vườn cây cao-su, các hộ dân liên kết với Nông trường trước đây, phần lớn thuộc diện hộ nghèo, thường xuyên thiếu ăn mỗi khi đến mùa giáp hạt, đến nay đã có trên 70% số hộ xây dựng nhà cửa khang trang, sạch đẹp; 100% số hộ gia đình có phương tiện đi lại, phương tiện nghe nhìn, (cá biệt có hộ còn mua sắm được xe ô-tô con ), con em họ đều được đi học. Bộ mặt nông thôn vùng đồng bào trồng cao-su không ngừng phát triển, thay da đổi thịt, xuất hiện ngày càng nhiều hộ làm ăn khá giả, thậm chí có nhiều hộ còn đạt Danh hiệu gia đình nông dân sản xuất giỏi. Tiêu biểu là hộ Ông Y Hoang Ayn (xã Cư Mgar) có diện tích 5 ha. Nhờ tích cực trồng và chăm sóc chu đáo cây cao-su nên sau khi trả nợ vốn gốc và lãi vay đầu tư, vốn vay mua vật tư phân bón cho Nông trường, năm 2009 gia đình ông còn thu được 138,7 triệu đồng, năm 2010 này thu được trên 200 triệu đồng. Hộ Ông Y Trung Mlô (xã Ea Kpam) có diện tích 2,1 ha, sau khi trừ trả nợ vốn gốc, lãi vay đầu tư và vốn vay vật tư phân bón, năm 2009 cũng thu được trên 74 triệu đồng, năm 2010 thu được trên 90 triệu đồng. Tương tự hộ Ông Y Nam Ktlă ( xã Ea Tul) có diện tích 3 ha, năm 2009 thu được 85,26 triệu đồng, năm 2010 thu nhập 108 triệu đồng. Hộ Ông Y Luôm Êban (xã Ea Kpam) có diện tích 16 ha, năm 2009 thu được trên 883,2 triệu đồng, năm 2010 thu 945,6 triệu đồng...

Đối với Công ty Cao su Đắc Lắc và Nông trường, mô hình trồng cao-su liên kết với các hộ đồng bào dân tộc tại chỗ trên địa bàn, giúp đơn vị giải quyết được vấn đề đất trồng; góp phần gia tăng sản lượng hàng hóa xuất khẩu, đáp ứng yêu cầu thị trường, nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.

Mô hình liên kết còn góp phần cùng với địa phương phủ xanh đất trống đồi trọc, tái tạo độ rừng che phủ bằng cây cao-su, cải thiện môi trường sinh thái; giải quyết công ăn việc làm cho các hộ dân, nhất là hộ đồng bào dân tộc thiểu số tại chỗ, thực hiện mục tiêu xóa đói, giảm nghèo, xây dựng bộ mặt nông thôn vùng trồng cao-su không ngừng phát triển. Tình hình an ninh, chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn, trong những năm qua, luôn được giữ vững, các hộ dân đoàn kết, giúp đỡ nhau làm ăn, xây dựng cuộc sống mới. Công ty và Nông trường được Bộ Công an tặng thưởng Cờ thi đua xuất sắc và Bằng khen về thành tích xuất sắc trong phong trào toàn dân tham gia bảo vệ an ninh Tổ quốc.

Qua triển khai thực hiện mô hình trồng cao su liên kết với các nông hộ, Nông trường rút ra được một số bài học kinh nghiệm:

Trước hết, phải kiên trì tuyên truyền vận động, làm cho người dân thấy được lợi ích trước mắt và lâu dài trong việc trồng cao su liên kết trong suốt cả chu kỳ kinh tế cây cao-su. Phân tích cho người dân thấy rõ hiệu quả kinh tế khi năng suất vườn cây ổn định, đồng thời thấy rõ lợi ích từ việc bán sản phẩm gỗ cao-su sau khi vườn cây đưa vào thanh lý.

Vấn đề không chỉ khuôn hẹp trong lợi ích kinh tế, mà điều sâu xa hơn, qua sự hợp tác, nâng cao trình độ sản xuất, đổi mới tập quán canh tác cho đồng bào.

Thứ hai, cán bộ làm công tác khuyến nông, khuyến lâm phải tận tụy, gần dân, sâu sát vườn cây để hướng dẫn, giúp đỡ các hộ đồng bào dân tộc thực hiện đúng các công đọan trong quy trình kỹ thuật từ khai khoang, làm đất, chọn giống, trồng, chăm sóc và tổ chức khai thác mủ, nâng cao chất lượng sản phẩm, v.v.. Bên cạnh đó hướng dẫn, giúp đỡ các nông hộ trong việc phát triển kinh tế phụ gia đình nhằm lấy ngắn nuôi dài.

Thứ ba, trong công tác quản lý, phải thường xuyên công khai giá cả thu mua sản phẩm mủ cao-su theo giá thị trường từng thời điểm để các hộ dân biết, tránh tình trạng tư thương lợi dụng thu mua ép giá người nông dân, gây bất ổn trong công tác quản lý, chỉ đạo và điều hành của doanh nghiệp.

Theo chương trình phát triển cao-su của Chính phủ, 5 năm tới tỉnh Đắc Lắc dự kiến phát triển 30.000 ha cao-su, riêng huyện Cư Mgar phấn đấu phát triển trên 4.000 ha. Do đó, Công ty Cao-su Đắc Lắc nói chung, Nông trường Cao-su Cư Mgar nói riêng xác định, tiếp tục triển khai thực hiện mô hình liên kết trồng cao su với các hộ đồng bào dân tộc tại chỗ trên địa bàn, góp phần hoàn thành chỉ tiêu Đảng bộ tỉnh Đắc Lắc và Đảng bộ huyện Cư Mgar đề ra. Tuy nhiên, để triển khai thực hiện tốt mô hình này, Nông trường kiến nghị cấp trên một số vấn đề sau:

- Chính quyền địa phương các cấp nên có phương án quy hoạch vùng trồng cao-su tập trung (tránh tình trạng manh mún, nhỏ lẻ), tạo thuận lợi cho việc đầu tư cơ sở hạ tầng, nhà máy sơ chế về lâu dài.

- Việc quy hoạch vùng trồng cao-su phải chú trọng bảo đảm các yếu tố cần thiết như: loại đất, cao trình, các yếu tố thời tiết, v.v.. để cây cao-su sinh trưởng và phát triển, bảo đảm thời gian đưa vườn cây vào khai thác đúng lộ trình.

- Khuyến khích các mô hình liên kết giữa doanh nghiệp và nông dân, thành lập công ty cổ phần, trong đó người dân đóng góp quyền sử dụng đất và doanh nghiệp bảo đảm cung ứng vốn, cây giống, vật tư, hướng dẫn kỹ thuật, sơ chế và kinh doanh.

- Thường xuyên tổ chức các lớp đào tạo, nhất là đào tạo khuyến nông viên. Hình thức đào tạo cần đa dạng, tốt nhất là ngay tại vườn nông dân.

- Xây dựng mô hình trình diễn tại các địa phương trồng cao-su. Kết hợp xuất bản các ấn phẩm liên quan đến kỹ thuật cây cao-su theo từng chuyên đề, từng loại kỹ thuật dưới dạng tờ rơi, sách, báo và phổ biến rộng rãi đến tận hộ dân trồng cao-su./.